GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


Xem tiếp...
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 33
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 033
 Lượt tr.cập 055544441
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Chuyên mục » Giáo phận Vinh - TÆ° liệu 27.04.2024
Lược sử Giáo phận Vinh
24.11.2008

.

LƯỢC SỬ
GIÁO PHẬN VINH



Tin Mừng đến đất Việt

Giáo hội Việt Nam lấy thời điểm năm 1533 như là mốc đầu tiên Tin Mừng đến trên quê hương Việt Nam, dựa theo sử liệu của nhà Nguyễn được viết trong sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục. Tuy nhiên, hoạt động truyền giáo đúng nghĩa chỉ được thực sự khởi đầu ở Việt Nam năm 1615 tại Đàng Trong, năm 1627 tại Đàng Ngoài, và riêng tại giáo phận Vinh, từ năm 1629.

Địa lý hành chính Giáo phận Vinh

Giáo phận Vinh nằm trên khu vực địa lý hầu như không thay đổi từ ngày thành lập đến nay, bao gồm tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và phía Bắc của tỉnh Quảng Bình, với tổng diện tích 30.783 km2. (hiện nay giáo phận Vinh thuộc trọn ba tỉnh: Nghệ-Tĩnh-Bình). Tên gọi giáo phận Vinh mới chính thức có từ năm 1924. Trước đó, từ khi thành lập, được mang danh là địa phận Nam Đàng Ngoài. Còn trước đó nữa là một phần của địa phận Tây Đàng Ngoài và là phần cực Nam của Miền Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài.

Có thể chia lịch sử hình thành và phát triển của Giáo phận Vinh thành những thời kỳ như sau :

- Thời kỳ khai phá của các thừa sai Dòng Tên (1629 - 1663)
- Thời kỳ hình thành các Đại diện Tông tòa (1663 - 1846)
- Thời kỳ thử thách (1846 - 1885)
- Thời kỳ phát triển (1885 - 1945)
- Thời kỳ cận đại (1945 đến nay).



I. THỜI KỲ KHAI PHÁ
DO CÁC THỪA SAI DÒNG TÊN
(1629-1663)

Khai sinh giáo đoàn Đàng Ngoài

Tháng 2-1629, linh mục Julien Baldinotti cùng vá»›i má»™t trợ sÄ© người Nhật lên tàu buôn tại Macao trá»±c chỉ Đàng Ngoài. Sau 36 ngày lênh đênh trên biển, các vị đến Thăng Long và được nhà cầm quyền đón tiếp. NhÆ°ng vì không biết tiếng địa phÆ°Æ¡ng nên cha Baldinotti phải từ chối và theo tàu về lại Macao tháng 8 năm đó.   

Nhận thấy những triển vọng tốt đẹp cho công cuá»™c truyền giáo ở vùng đất này, cha Baldinotti liền thúc dục Bề trên Dòng Tên tại Macao gá»­i thừa sai đến Đàng Ngoài. Nhờ được má»™t thÆ°Æ¡ng gia giúp đỡ, cha Đắc Lá»™ (Alexandre de Rhodes) và cha Pedro Marquez lên tàu từ Macao ngày 12-3-1627 và đúng ngày lá»… Thánh Giuse, ngày 19-3-1627, hai vị  đặt chân lên Cá»­a Bạng, Thanh Hóa. Vì cả hai thừa sai này, đặc biệt cha Đắc Lá»™, đã từng họat Ä‘á»™ng ở Đàng Trong, khá am hiểu phong tục và tiếng Việt nên ngay khi má»›i đặt chân lên bờ, cha Đắc Lá»™ đã bắt đầu rao giảng “Đạo Chúa Trời đất” và “có hai người rất thông minh nhất quyết xin chịu phép rá»­a tá»™i. Tôi đã rá»­a tá»™i cho họ sau đó ít lâu cùng tất cả gia đình”. NhÆ° vậy, giáo Ä‘oàn Đàng Ngoài chính thức được khai sinh.

Những hoa quả đầu tiên tại Giáo phận Vinh

Trong hai năm đầu, cha Đắc Lá»™ và cha Marquez hoạt Ä‘á»™ng ở Thanh Hóa, Ninh Bình và Thăng Long. Cuối tháng 3-1629, khi bị chúa Trịnh Tráng trục xuất, hai vị bị dẫn Ä‘á»™ theo đường bá»™ vào Quảng Bình để tống xuất vào Đàng Trong, họ má»›i có cÆ¡ há»™i giảng đạo trên phần đất giáo phận Vinh ngày nay. Nhờ có tài thuyết phục, hai vị không bị tống xuất vào Đàng Trong mà được phép ở lại để tá»± tìm phÆ°Æ¡ng tiện trở lại Macao. Vá»›i thời gian chÆ°a đầy bảy tháng, khi ở trên bá»™, lúc ở trên thuyền, trên đường từ Nghệ An, qua Hà TÄ©nh, vào Bố Chính, hoặc ngược lại, từ Bố Chính quay lại Nghệ An, cha Đắc Lá»™ đã tận dụng mọi cÆ¡ há»™i để rao truyền Đạo Chúa và rá»­a tá»™i cho lÆ°Æ¡ng dân. TrÆ°á»›c hết là 24 thủy thủ, kể cả thuyền trưởng (trên tổng số 36 người áp giải hai vị thừa sai). Kế đó là 25 người tại Bố Chính, trong đó có má»™t ông Cá»­ rất thông Hán học. Rồi tại quê nhà của “hai giáo dân sốt sắng là Phêrô và Anrê” (cha Đắc Lá»™ không nói rõ là đâu nhÆ°ng có thể là tại Cá»­a Lò hay Cá»­a Sót) vá»›i 112 tân tòng. Và cuối cùng là mẻ cá lá»›n vá»›i  600 tín hữu tại vùng “Cá»­a Rum” (có thể là tại Cá»­a Há»™i, thành phố Vinh và huyện HÆ°ng Nguyên, Nghi Lá»™c ngày nay ?). Tất cả những hạt giống đức tin này, tuy được gieo vãi trong vá»™i vàng, nhÆ°ng đã nhanh chóng lá»›n mạnh  và trở thành nòng cốt cho Giáo há»™i tại miền Nghệ-TÄ©nh-Bình sau này.

Các thừa sai Dòng Tên tiếp nối

Ngày 27-10-1629, cha Đắc Lá»™ và cha Marquez lên tàu Bồ Đào Nha tại “Cá»­a Chúa” (tức Cá»­a Quèn hay Cá»­a Cờn ?) về lại Thăng Long và bị chúa Trịnh trục xuất phải rời Đàng Ngoài tháng 5-1630. Tháng 3-1631, ba thừa sai Dòng Tên tá»›i Thăng Long. Đến tháng 10, thêm hai vị khác đến, trong đó có cha Jerome Majorica được cá»­ Ä‘i Nghệ An. Đây là vị thừa sai có đóng góp lá»›n vào văn hóa Việt Nam qua việc biên sọan 48 cuốn sách đủ loại. Ngài cÅ©ng là vị thừa sai  ở Nghệ An lâu nhất, từ đầu năm 1632 đến khi qua đời tại Thăng Long ngày 27-1-1656 và là người có công lá»›n trong việc gầy dá»±ng Giáo há»™i tại đây. Tuy có các lệnh cấm đạo cuối năm 1632, năm 1643 và năm 1649 của chúa Trịnh, nhÆ°ng họat Ä‘á»™ng truyền giáo tại Nghệ An vẫn tiến triển tốt đẹp: năm 1639, tại Nghệ An đã có 70 làng đón nhận đức tin; còn theo phúc trình ngày13-10-1647 sau cuá»™c kinh lý tại vùng này, linh mục Jean Cabral ghi nhận rằng: “Ở Nghệ An, có 53 nhà thờ, không kể các nhà nguyện tÆ° là nÆ¡i giáo hữu tá»›i cầu nguyện”. Má»™t tài liệu khác cho hay năm 1653, Nghệ An có 70 nhà thờ vá»›i 40.000 giáo dân.


II. THỜI KỲ HÌNH THÀNH
CÁC ĐẠI DIỆN TÔNG TÒA

Ngày 9-9-1659, Đức giáo hoàng Alexandre VII thiết lập hai miền Đại diện Tông tòa là Đàng Ngoài, giao cho Đức cha Francois Pallu, và Đàng Trong, giao cho Đức cha Lambert de la Motte. Cả hai vị đều thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP) và mới được bổ nhiệm Giám mục trước đó, (ngày 29-7-1658). Đức Cha Pallu đã không thể tới nhiệm sở của mình. Vị Tổng Đại diện của ngài, linh mục Francois Deydier tới Đàng Ngoài cuối tháng 8-1666. Vào cuối năm 1669, Đức Cha Lambert de la Motte đã tới Đàng Ngoài và đầu năm 1670, ngài đã phong chức linh mục cho 7 thầy giảng, trong đó, Cha Mactinô Mật và Lêô Trông được cử vào phụ trách miền Nghệ-Tĩnh-Bình.

Năm 1678, Tòa Thánh phân chia Đàng Ngoài thành hai địa phận : Đông Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài. Vinh thuá»™c Tây Đàng Ngoài.  

Nghệ-TÄ©nh-Bình là má»™t vùng truyền giáo quan trọng  và được chọn làm những nÆ¡i cÆ° trú của Đại diện Tông tòa. Năm 1682, thừa sai đầu tiên của Há»™i Truyền giáo Paris là linh mục  Jean Louis Sarrante tá»›i họat Ä‘á»™ng ở Nghệ An và từ thời Ä‘iểm đó cho tá»›i khi thành lập giáo phận Vinh (1846), trừ má»™t vài ngắt quãng ngắn, luôn có sá»± hiện diện của các thừa sai Pháp, gồm 13 vị, trong đó, có 5 vị là Giám mục Đại Diện Tông Toà hay Giám mục phó, nhÆ°  Đức Cha Bélot (1713 - 1717, mất tại Tràng Đen); Đức Cha Guisain (1718 -1723, qua đời tại Tràng Đen); Đức Cha Phó Deveaux (1752 - 1756, mất tại Thọ Kỳ); Đức Cha Phó Charles de La Mothe (tên Việt là Hậu), thụ phong Giám mục  năm 1796, dời Tòa Giám mục từ Tràng Đen về Thọ Kỳ, qua đời tại Kẻ Trầu (LÆ°u Mỹ) năm 1816 và được an táng trong nhà thờ Thọ Kỳ; Đức Cha Phó Jean Jacques Guerard (tên việt là Đoan), từ năm 1816 đến 1823, qua đời và được an táng trong nhà thờ Thọ Kỳ.   

Hoạt Ä‘á»™ng truyền giáo tại Nghệ-TÄ©nh-Bình trong suốt thời gian này còn có sá»± cá»™ng tác đắc lá»±c  của các linh mục người Việt, mà hai vị đầu tiên là Mactin Mật và Lêô Trông (1670). Sau đó có thời gian chỉ có 1 hay 2 vị, cÅ©ng có lúc hÆ¡n 10 vị nhÆ° dÆ°á»›i thời thừa sai Savary (1764-1783) hay có lúc khoảng 30 vị nhÆ° năm 1833. Ngoài ra, từ khi trở lại Việt Nam (1669), các thừa sai Dòng Tên cÅ©ng đã hoạt Ä‘á»™ng tại vùng Nghệ-TÄ©nh-Bình là những nÆ¡i mà các vị thừa sai ban đầu (đặc biệt là Đắc lá»™ và Majorica) đã khai phá và thiết lập. Tiếc rằng có sá»± “tranh cãi” giữa các thừa sai Dòng Tên vá»›i các thừa sai Há»™i Truyền Giáo Paris, và các thừa sai Dòng Tên đã bị Tòa Thánh triệu hồi năm 1680, nhÆ°ng do nhu cầu mục vụ, được quay lại từ năm 1692.


III. THỜI KỲ THỬ THÁCH

Trong thá»­ thách và cấm cách  

Từ lúc khởi đầu đón nhận Tin Mừng (1629) cho đến ngày thành lập (1846), giáo phận Vinh luôn ở trong tình thế khó khăn, cấm cách. Tuy có lệnh của triều đình, nhưng việc cấm cách cũng không đến nỗi gắt gao, chủ yếu là những sách nhiễu của địa phương hơn là những truy nã thực sự theo lệnh trên. Đến thời vua Gia Long (1802-1820) và những năm đầu của vua Minh Mạng (1821-1832), đạo Công giáo được phép hoạt động tự do. Nhưng từ đầu năm 1833, vua Minh Mạng ra sắc chỉ truyền tập trung tất cả các thừa sai nước ngoài về kinh đô và tất cả các linh mục Việt Nam về tỉnh đường; triệt hạ tất cả các nhà thờ, nhà nguyện; triệu tập tất cả tín hữu lên huyện đường bắt khóa quá, bỏ đạo. Thời gian này, giáo phận Vinh đã có nhiều chứng nhân hy sinh, trong đó có 6 Thánh Tử đạo đầu tiên: Linh mục Phêrô Lê Tùy (trảm quyết ngày 11-10-1833), Đức cha Borie (Cao) và hai linh mục Phêrô Vũ Đăng Khoa và Phêrô Nguyễn Thời Điểm bị hành quyết ngày 24-4-1838; Thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự bị xử giảo ngày 10-7-1840. Sau khi vua Minh Mạng mất (21-1-1841), vua Thiệu Trị tiếp tục cấm đạo và giáo phận Vinh có thêm một Thánh Tử đạo là linh mục Phêrô Hoàng Khanh bị xử trảm ngày 12-7-1842.

Tuy bị bách hại nhưng giáo phận Vinh không ngừng phát triển và phát triển tới mức có thể trở thành một giáo phận. Theo báo cáo ngày 27-3-1839 của Giám mục Đại diện Tông toà Retord (Liêu), số tín hữu công giáo Nghệ-Tĩnh-Bình đã lên tới 63.981 người, gồm 45.334 ở Nghệ An và Hà Tĩnh; và 17.617 ở Bắc Quảng Bình.

Giáo phận được thành lập    

Vá»›i số giáo dân đông đảo nhÆ° trên, chiếm hÆ¡n 1/3 tổng số giáo dân của giáo phận Tây Đàng Ngoài, Đức cha Retord (Liêu), trong phúc trình ngày 8-8-1844,  đã xin Tòa Thánh lập má»™t giáo phận má»›i. “Bởi vì tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà TÄ©nh cùng vá»›i huyện quen gọi là Bố Chính là nÆ¡i có ít nhất 60.000 giáo hữu có thể làm thành má»™t địa phận rất thuận lợi, gọi là địa phận Nam Đàng Ngoài”. Đề nghị này được Tòa thánh chấp thuận và ngày 27-3-1846, Đức Thánh Cha Grêgôriô XVI đã ký sắc lệnh thành lập Địa phận Nam Đàng Ngoài, đồng thời bổ nhiệm Đức giám mục phó Tây Đàng Ngoài  là Gauthier (Ngô Gia Hậu) làm Đại Diện Tông Toà địa phận má»›i.

Đức Cha Hậu sinh năm 1810, thụ phong linh mục năm 1834, được tấn phong giám mục phó Tây Đàng Ngoài ngày 06-2-1842 khi má»›i 37 tuổi. Ngài đến nhận nhiệm sở Xã Đoài ngày 15-2-1847. Vào thời Ä‘iểm này, giáo phận Vinh có khoảng 64.000 giáo hữu, 5 thừa sai Pháp và 30 linh mục bản quốc. DÆ°á»›i thời Đức cha Hậu, giáo phận tiếp tục phát triển. Năm 1853, số “giáo hạt” đã tăng lên con số 21 (so vá»›i trÆ°á»›c chỉ có 18), khoảng 465 “giáo xứ”, giáo họ vá»›i 45 linh mục người Việt. Trong phúc trình năm 1853, Đức Cha Hâu viết: “Hiện có 2 chủng viện để dạy cho 85 thanh niên tiếng La tinh…Tôi cÅ©ng đã gá»­i 20 thanh niên khác sang chủng viện Pulo-Pinang học”. Từ năm 1868-1869, vá»›i sá»± trợ giúp đắc lá»±c của Ông Nguyá»…n Trường Tá»™, Đức Cha xây dá»±ng cÆ¡ sở Tòa Giám Mục tại Xã Đoài.  

Tiếp nối một thời cấm cách đau thương

Giáo phận má»›i thành lập, và tình hình chính trị biến Ä‘á»™ng khiến cho người Công giáo lại bị má»™t phen khốn đốn do bị bách hại. Ngày 1-9-1858, quân Pháp bắn phá Đà Nẵng… Thiệu Trị ban hành chỉ dụ chống Công giáo, Đức Cha Hậu phải tạm ngÆ°ng các cuá»™c kinh lý và tìm nÆ¡i ẩn trốn. Triều đình ra lệnh cấm cách gắt gao, truy nã các thừa sai và đạo trưởng. Các quan lại và lÆ°Æ¡ng dân địa phÆ°Æ¡ng  nhiệt tình thá»±c hiện các mệnh lệnh, nên trong số 42 linh mục người Việt Ä‘ang hoạt Ä‘á»™ng, có 20 vị bị bắt và hy sinh (18 vị bị trảm quyết, 2 vị chết trong tù. Tất cả những vị này đều đã được lập hồ sÆ¡ xin phong chân phÆ°á»›c). Phần giáo hữu cÅ©ng không được yên thân: các chức việc trong họ đạo (600 ông Trùm trưởng) và trai tráng bị tập trung, quản chế. Đau thÆ°Æ¡ng nhất là tất cả các giáo hữu, bất kể già trẻ, trai gái đều bị “đóng dấu” (thích chữ “tả đạo” vào má trái, còn má phải thì thích tên địa phÆ°Æ¡ng họ bị chỉ định cÆ° trú), sau đó Ä‘em Ä‘i phân tháp: vợ chồng bị chia lìa, con cái tách rời khỏi cha mẹ và được Ä‘Æ°a đến cÆ° ngụ trong các làng lÆ°Æ¡ng dân. Các làng Công giáo bị triệt hạ nhà cá»­a; tài sản, ruá»™ng vườn được chia cho các làng lân cận.   

Trong má»™t văn bản gá»­i Trần Tiến Thành và Phạm Phú Thứ, ngày 4-6-1866, Nguyá»…n Trường Tá»™ viết: “Hiện nay ở tỉnh Nghệ An, tình hình lÆ°Æ¡ng giáo lòng Ä‘ang sôi sục. Má»™t bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho tiệt má»›i thôi. Má»™t bên nói con thú mà bị khốn quẫn còn cắn càn, huống chi là con người ! Nếu bên kia không để cho cùng sinh cùng dưỡng, thì bên này cÅ©ng không  để bó tay chịu trói”.

Ngày 07 tháng 6 năm 1868, tình hình xem ra yên ổn một chút, Đức Cha Hậu trở về Nghệ An và cử hành trọng thể lễ phong chức cho Cố Hoà (Croc) làm giám mục phó. Sau khi tham dự Công Đồng Vatican I (1870), Đức Cha Hoà trở về và trấn nhiệm tại Bố Chính.

Trong thÆ° ngày 7-12-1874, Đức Cha Ngô Gia Hậu cho biết ở Nghệ TÄ©nh có 23.190 giáo hữu có nhà cá»­a bị đốt, 2.058 người bị tàn sát và 1.343 người bị chết đói. Vài con số đối chiếu: Đông Thành toàn làng bị đốt (3.500 người bị mất nhà), 622 người bị sát hại và 158 người chết đói. Quỳnh LÆ°u: 3.000 // 415  // 145, Nam Đường: 2.000  //  189  // 161, HÆ°Æ¡ng SÆ¡n: 2.500  //  215  //  200; ở Thanh Xuyên (Thanh ChÆ°Æ¡ng?) có 6.000 người không còn nhà cá»­a…).

Sau khi Đức Cha Hậu qua đời ngày 8-12-1877, Đức Cha Hoà kế nhiệm. Vị tân Đại diện Tông toà đã có 24 năm kinh nghiệm truyền giáo và 10 năm làm giám mục phó nay phải đương đầu với những nạn đói lớn và phong trào Văn Thân. Theo báo cáo của thừa sai Thanh, thì do vụ mùa năm 1877 thất thu, từ đó nạn đói mỗi ngày một gia tăng và số người chết không đếm nổi. Năm 1879 thừa sai Phê viết: “Tại Đông Thành có hơn 500 người chết đói”. Ngày 19-3-1879 Đức Cha Hoà viết: “Trong số 70.000 giáo dân của chúng tôi, có 50.000 ở trong tình trạng thiếu thốn trầm trọng. Hiện nay trong mỗi làng đều có người chết vì đói, và số người chết ngày càng tăng”. Còn thừa sai Bình từ Hướng Phương viết như sau: “…Ngày nay Bình Chính chỉ còn là một ngôi mộ lớn mỗi ngày ngốn hàng chục, hàng trăm nạn nhân. Theo trí nhớ của loài người thì chưa bao giờ có một nạn đói khủng khiếp như thế”.

Năm 1884, Đức Cha Hoà vì kệt sức, phải sang Hồng Kông dưỡng bệnh và ngài đã qua đời tại đó ngày 10.10.1885.

Ngày 5-11-1885 thừa sai Thanh (Frichot) quyền Đại diện Tông Toà ở Xã Đoài viết: “Hiện nay, giáo phận Vinh chúng tôi hoàn toàn nằm trong khói lửa, các Văn Thân từ một tháng nay nổi lên khắp nơi, một số làng công giáo bị hoả thiêu…”. Thống kê thiệt hại của giáo phận Vinh sau những biến cố đau thương của năm 1885-1886 như sau : “Hai trăm sáu mươi bốn, trên tổng số 428 giáo họ bị triệt phá và thiêu huỷ hoàn toàn cùng với 160 nhà thờ. Số giáo hữu bị tàn sát là 4.779 người…”.

Ngày 24-10-1886, thừa sai Trị (Pineau) được tấn phong giám mục và ngài đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn.


IV. GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
(1886-1945)

Cuối năm 1886 Đức Cha Trị viết: “Máu của các tín hữu chúng ta đổ lan tràn từ một năm nay đã làm cho vùng đất thấm máu này trở nên trù phú. Hai làng ngoại, Hòa Luật và Đông Di, lúc xáo trộn, đã cắt cổ ít nhất 1.100 giáo hữu, hôm nay xin chịu phép rửa”. Hàng năm, có hơn 1.000 người lớn theo đạo, có những năm hơn 5.000 người. Từ năm 1886 cho đến năm 1899, số giáo hữu đã tăng từ 68.000 người lên 116.171 người. Số nhà thờ từ 140 tăng lên 390. Từ năm 1900, số người theo đạo có giảm sút. Năm 1902-1903 Đức Cha Trị viết: “Những cuộc trở lại, khốn thay ngày càng khó khăn. Lối sống của Châu Âu càng ngày càng đâm rễ sâu trong xứ này, sự thờ ơ tôn giáo gia tăng…”.

Sau hơn 23 năm làm giám mục Đại diện Tông toà, Đức Cha Trị đã gặp rất nhiều khó khăn gian khổ. Tuy không còn cấm cách bách hại, nhưng phải xây dựng từ điêu tàn do hậu quả của những năm trước, rồi mất mùa, đói kém… 23 năm giám mục của Đức Cha Trị là 23 năm đầu của thời kỳ Pháp thuộc. Đức Cha rất xót xa khi thấy cảnh lầm than của dân chúng do sưu cao thuế nặng. Rồi thời rối rắm lại đến…tháng 6 năm 1909, Đức Cha Trị bị triệu hồi về Pháp và tháng 6 năm 1910, khi tàu vừa tới cảng Marseilles, Đức Cha đã phải ký vào đơn xin từ chức do người ta đã viết sẵn. Dưới thời ngài, số tín hữu đã tăng gấp đôi: đầu năm 1886 là 60.000, cuối năm 1909 tăng lên 142.404.

Sau khi Đức Cha Trị rời giáo phận Vinh, Đức Cha Đông  (Gendreau) tại Hà Ná»™i kiêm giám quản tông Toà địa phận Nam. Giữa những phức tạp, rối ren…, ngày 09.2.1911 Toà thánh bổ nhiệm thừa sai Thọ (Belleville), quản hạt Bình Chính làm giám mục địa phận Nam, nhÆ°ng mãi tá»›i ngày 24.4.1911 ngài má»›i trả lời xin nhận nhiệm vụ “vì Đức Cha Đông nài nỉ và theo sá»± phán Ä‘oán của các đồng sá»± sáng suốt”. Công việc đầu tiên của vị tân giám mục là kêu gọi các linh mục và giáo hữu toàn giáo phận góp tiền của và công sức để xây dá»±ng Đại Chủng Viện. NhÆ°ng chỉ sau hÆ¡n 1 năm được tấn phong và sau vài lần Ä‘i viếng thăm mục vụ, ngài Ä‘á»™t ngá»™t qua đời ngày 7.7.1912.

“Cố Đoài (Abgrall) nắm quyền Đại diện Tông toà và đối với người Pháp, ngài là ứng viên giám mục sáng giá của giáo phận Nam, nhưng ngày 11.12.1912 Toà Thánh bổ nhiệm cố Bắc (Eloy) làm giám mục Đại diện Tông toà của giáo phận”. Đức Cha Bắc, người có quá trình hoạt động lâu dài tại giáo phận Vinh: 18 năm linh mục thừa sai, 35 năm giám mục Đại diện Tông toà. Dưới thời ngài cơ sở vật chất được xây mới rất nhiều. Ngài đã phong chức hơn 200 linh mục, thành lập thêm 65 xứ. Số giáo hữu ngày một đông hơn: năm 1920 là 124.000 người với 492 nhà thờ, nhà nguyện; năm 1940 là 167.469 người với 741 nhà thờ, nhà nguyện.

Về nhân sá»± truyền giáo và họat Ä‘á»™ng mục vụ trong thời gian này, phía các thừa sai Pháp, con số luôn khá ổn định, từ 1891 đến  1918, luôn có hÆ¡n 30 thừa sai Pháp, có lúc tăng đến con số cao nhất là 39 vị năm 1924. Còn sau thời Ä‘iểm này, hầu nhÆ° luôn ở mức dÆ°á»›i 30 vị, ít nhất cÅ©ng có 23 vị. Phần các linh mục Việt Nam thì ngày càng gia tăng. Năm 1886 có 53 vị, năm 1900 có 68 vị, từ năm 1913 đã vượt ngưỡng con số 100 vá»›i 107 vị, năm 1925 có 155 vị và năm 1940 giáo phận Vinh  có 186 linh mục Việt Nam.  

Riêng nhà thờ Chính tòa được khởi công dưới thời Đức cha Trị và được khánh thành năm 1892, cũng là năm giáo phận Vinh được dâng hiến cho Đức Mẹ và nhận Đức Mẹ Lên Trời làm Bổn mạng.

Về các dòng tu trong giáo phận, ngoài Dòng Mến Thánh Giá đã có từ trước. Từ năm 1930, giáo phận Vinh mới có thêm một dòng tu và là dòng duy nhất và đều thuộc Hội Dòng Phan Sinh là Dòng Phanxicô (các Cha Dòng Nhất), Dòng Thánh Clara (Dòng Nhì , năm 1935) và Dòng Phan Sinh (Dòng Ba, năm 1936). Hơn 100 trường học, phần lớn là sơ cấp và tiểu học, với khoảng 5.000 học sinh. Các trường được xây dựng tại các giáo xứ.

Nhìn chung, giáo phận Vinh đã phát triển khá ổn định và khá vững vàng trong thời kỳ 1885-1945, như các số liệu so sánh sau đây cho thấy :

Năm      Giáo hữu         Giáo họ        Giáo xứ          Linh mục
1885        73.483            445                 37                  59
1945       180.622            545              147                 198

Về người dân Nghệ- Tĩnh - Bình, Cố Đoài, sau một thời gian dài truyền giáo tại giáo phận Nam, đã đánh giá: “Những người dân ở đây luôn đi đầu trong nổi loạn và đi sau cùng khi phải đầu hàng”.


V. THỜI KỲ CẬN ĐẠI

Má»™t giai Ä‘oạn bất ổn  

Cuộc Cách mạng Mùa Thu 1945, rồi 9 năm kháng chiến và với Hiệp định Genève (20-7-1954), người Pháp rút khỏi Đông Dương, đất nước bị chia cắt thành hai miền, giáo phận Vinh thuộc miền Bắc, do những người Cộng sản nắm quyền. Người Công giáo nói chung rơi vào hoàn cảnh bất ổn, một phần vì những khác biệt trong ý thức hệ, phần khác vì những hệ lụy của lịch sử quá khứ để lại. Những đối tượng đầu tiên gánh hậu quả là các thừa sai: cuối tháng 8-1945, tất cả 19 linh mục Pháp và Đức cha Bắc đều bị tập trung về Vinh; sau đó, một số trở về Pháp, số khác vào phía Nam. Riêng Đức cha Bắc, vì tuổi già sức yếu, được ở lại Tòa giám mục Xã Đoài và ngài qua đời tại đây ngày 30-7-1947.

Tình hình mới đã buộc hàng giáo sĩ địa phương đứng ra đảm nhận trách vụ điều hành giáo phận. Ngày 31-7-1950, Tòa Thánh đã bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức làm Giám quản Tông tòa giáo phận, và ngày 19-8-1951 bổ nhiệm ngài làm Giám mục Đại diện Tông tòa. Vị giám mục người Việt tiên khởi của giáo phận Vinh phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua: cấm đoán, bắt bớ, tù đày... Trong bối cảnh đó nhiều người Công giáo Vinh, kể cả linh mục và tu sĩ, đã lên đường di cư vào Nam. Hội Dòng Phanxicô cũng đã lần lượt rời khỏi Vinh.

Nhìn chung, so sánh với các giáo phận khác ở miền Bắc, số người Công giáo Vinh di cư chiếm tỷ lệ không nhiều. Tuy vậy, đó cũng là một cuộc “chảy máu nội lực”. Sau di cư là những căng thẳng do cải cách ruộng đất. Rồi trước thực tế không thể nào khác, người Công giáo phải chấp nhận sống trong tình thế thường được gọi là “Giáo hội thầm lặng”. Một “Giáo hội thầm lặng” nhưng luôn luôn sống dưới sự dẫn dắt của Đức Cha Trần Hữu Đức, vị giám mục mà theo ông Nguyễn Thế Thoại - một nhân sỹ công giáo Huế đã sống gần ngài, đã viết: “Đức tính của ngài hiền từ, khiêm tốn, nhã nhặn…và tất cả những ai tiếp xúc với ngài đều không thể quên được dung mạo, cử chỉ, ngôn ngữ của ngài phát ra những đức tính siêu phàm của Phúc Âm: thật thà mà khôn ngoan, ôn tồn mà cứng rắn, dịu dàng mà can đảm, hiền hậu mà kiên quyết, luôn bình tĩnh trước phong ba và thản nhiên trong đau khổ…”

Năm 1960, khi hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập, Vinh trở thành giáo phận Chính tòa. Ngày 15.3.1963, cha Phaolô Nguyễn Đình Nhiên được tấn phong giám mục phó và vẫn ở Đại Chủng Viện với nhiệm vụ là giám đốc. Trong trận bom Mỹ ném xuống khu vực Nhà Chung Xã Đoài, Đức Cha Nhiên bị trọng thương và qua đời ngày 24.3.1969. Đức Cha Trần Hữu Đức tiếp tục lèo lái con thuyền giáo phận cho tới ngày Chúa gọi về, ngày 8.1.1971.

Ngày 15.3.1971, cha Phêrô Nguyễn Năng được tấn phong giám mục giáo phận Vinh. Ngài lãnh đạo giáo phận trong thời gian 8 năm. Trước những khó khăn chồng chất, chiến tranh, đổ nát điêu tàn, cấm đoán…Đức Cha chưa thể làm được gì nhiều. Ngài vừa khởi công xây dựng lại nhà thờ Chính toà thì đã phải ra đi đột ngột vào ngày 6.7.1978, hưởng thọ 68 tuổi. Và cha quản lý Phaolô Cao Đình Thuyên tiếp tục công việc này.

Dù giữa muôn vàn khó khăn gian khổ, nhưng Giáo phận vẫn luôn phát triển nhờ sự hiện diện của các giám mục kế tiếp nhau và sự cộng tác tích cực của các linh mục. Tiểu chủng viện Xã Đoài vẫn liên tục hoạt động từ năm 1948 đến năm 1968 là năm nhà trường bị bom Mỹ đánh sập. Còn Đại chủng viện Xã Đoài vẫn tiếp tục đào tạo các chủng sinh từ tháng 2-1952 cho tới năm 1981. Từ năm 1954 đến năm 1975, giáo phận Vinh có thêm hơn 50 linh mục và luôn là giáo phận có đội ngũ linh mục đông đảo nhất ở miền Bắc.

Ngày 4.3.1979 Cha Phêrô Trần Xuân Hạp, quản hạt Bình Chính được tấn phong giám mục tại Xã Đoài trong một cuộc lễ trang trọng, tưng bừng khó quên, vì dịp này giáo phận khánh thành Nhà thờ Chính toà. Cố gắng đầu tiên của Đức Cha Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp là làm cho Đại Chủng Viện được hồi sinh vào năm 1988. Giáo phận Vinh đang nhìn về tương lai đầy hy vọng. Năm 1990 sau khi đi viếng mộ hai thánh Tông đồ tại Rôma, Đức Cha đã xin phép Toà Thánh cho mở năm Thánh kỷ niệm 100 năm dâng hiến giáo phận cho Đức Mẹ và 146 năm thành lập giáo phận. Ngày 19.11.1992 Cha Phaolô Cao Đình Thuyên được tấn phong giám mục phó, cả giáo phận lại hân hoan tràn đầy hy vọng và coi đây như là hoa quả Chúa ban cho giáo phận sau Năm Thánh. Năm 1997 toà nhà mới của Tòa Giám mục được khánh thành…

Trên cÆ°Æ¡ng vị lãnh đạo, Đức cha Trần Xuân Hạp “đã tranh thủ mọi cÆ¡ há»™i, phấn đấu vượt mọi khó khăn trở ngại để mở mang sá»± đạo. Mọi sinh hoạt tôn giáo được phục hồi và đẩy mạnh nhÆ°  tÄ©nh tâm hằng năm của các linh mục tại trung tâm giáo phận, tÄ©nh tâm hàng quý ở các giáo hạt, việc kinh lý và ban phép thêm sức, việc chầu lượt đền tạ Thánh Thể ở từng giáo xứ, việc học giáo lý của thanh thiếu niên…” (trích “Ká»· yếu giáo phận Vinh 1992”, trang 13). Từ năm 1991, nhờ sá»± tài trợ của Toà Thánh và các tổ chức nÆ°á»›c ngoài, nhiều nhà thờ được xây má»›i, trường học giáo lý, các cá»™ng Ä‘oàn Dòng Tu cÅ©ng được trùng tu lại khang trang hÆ¡n. CÅ©ng trong thời gian này, Dòng Thừa Sai Bác Ái được cha Giuse Nguyá»…n Đăng Điền khai sinh, và được Đức cha Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp chính thức chấp nhận vào năm 2000.

Cuối năm 2000, Toà Thánh chấp nhận đơn xin từ nhiệm của Đức Cha Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp, Đức Cha phó Phaolô Maria Cao Đình Thuyên kế vị.

Là người có kinh nghiệm 40 năm linh mục, và là linh mục có thời gian làm việc lâu nhất tại Xã Đoài, từ quản lý giáo phận trong những năm đầy khó khăn biến động, rồi Tổng đại diện giáo phận và 8 năm trong cương vị giám mục phó, Đức Cha Phaolô rất am hiểu về những khó khăn và thuận lợi, những thách đố và triển vọng của giáo phận xưa cũng như nay, để từ đó giúp cho việc mục vụ của Đức Cha thêm bề thuận lợi và thu nhiều kết quả.

Một điều ai cũng thấy nơi Đức Cha đương nhiệm là luôn quan tâm đến các sinh hoạt tại các cơ sở, giáo xứ, giáo họ. Đức cha đã dành nhiều thời gian để gặp gỡ chia sẻ với con cái, nhất là những nơi vùng sâu, vùng xa.

Những năm qua, giáo phận đã gặp thời thuận lợi để sống và củng cố niềm tin: Năm Thánh Truyền giáo (2004); Năm Thánh Thể (2005)  và đặc biệt Năm Giá»›i Trẻ giáo phận (2006) mở ra cÆ¡ há»™i lá»›n lao để giáo phận, nhất là các bạn trẻ sống niềm tin của mình. Dù cho những thay đổi thăng trầm của lịch sá»­, nhÆ°ng giáo phận Vinh vẫn luôn thể hiện sức sống niềm tin vững vàng và trung kiên.
 
Những thành quả đạt được, những ấn tượng khó phai sẽ là những động lực nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin hôm nay và tương lai.

Nhờ sá»± phát triển không ngừng cả chiều rá»™ng và chiều sâu nÆ¡i giáo phận Vinh nên Tòa Thánh có dá»±  định chia tách giáo phận Vinh để thành lập thêm giáo phận má»›i. Và Đức Cha Phaolô Ä‘ang chuẩn bị cho sá»± kiện trọng đại đó. Má»™t trong những gì Đức Cha Ä‘ang chuẩn bị là xây dá»±ng Nhà thờ Chính toà tÆ°Æ¡ng lai tại Văn Hạnh.

Nhìn vào hiện tình của giáo phận và quy chiếu về quá khứ đầy bi hùng, chúng ta có thể vững tin vào tươi lai tươi sáng hơn của giáo phận Vinh thân yêu.



Tài liệu tham khảo :
(1) – “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục”, Nhà xuất bản văn sử địa Hà nội, 1960.
(2) Alexandre de Rhodes : “Hành trình và truyền giáo”. Tủ sách Đại Kết, TP.HCM, 1994.
(3) Lm. Trương Bá Cần : “ Lịch sử giáo phận Vinh. 1846 – 1996”.
(4) Lm TrÆ°Æ¡ng Bá Cần : Nguyá»…n Trường Tá»™, con người và di thảo”  Thành phố HCM, 2002.
(5) HĐGM Việt Nam : “Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2004”. Hà Nội, NXB Tôn giáo, 2004.
(6) Kỷ Yếu Giáo Phận Vinh 1992.


Vương Đình Chữ - Phạm Đình Phùng



  In bài này    Lưu dạng file    Gửi bài này qua Email


Những bài khác:



Gửi bài
Lên đầu trang
  Tin - bài mới nhất 
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Văn phòng TGM: Thông báo về Thánh lễ cao điểm Năm Thánh kỷ niệm 100 năm thành lập Tuần Chầu Lượt
Đức Giáo hoàng Phanxicô gặp Giáo chủ Giáo hội Chính thống Czech và Slovak
Giáo xứ Yên Đại: Khai mạc Tuần Chầu lượt trong Năm Thánh Thể Giáo Phận
Vòng loại Cuộc thi Tri thức Tôn giáo Cộng đoàn Vinh tại Hà Nội 2018: Cử hành và Sống Đức Tin
Chúa nhật Lễ Chúa Thăng Thiên, năm B: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Hội Dòng Chị Em Bác Ái Gioanna Antida Thouret: Thông báo tuyển sinh năm 2018
Giáo xứ Hòa Ninh: Khánh thành nhà thờ giáo họ Minh Lệ
Tòa Giám mục Giáo phận Vinh: Thông báo Lễ Truyền chức Phó tế cho các Đại Chủng sinh khóa XII
Hội Dòng Mến Thánh Giá Vinh: Thông báo Khóa học âm nhạc hè 2018
Thiên chức làm Mẹ của Đức Maria
Di dân Giáo phận Vinh tại Miền Nam: Bế mạc Giải Bóng đá Truyền thống Cúp Phục Sinh lần thứ VII
Thư Rao về việc truyền chức Phó tế cho Thầy G.B. Đoàn Văn Huy
Tuần Chầu lượt tại các giáo xứ Nghi Lộc, Làng Anh và Vĩnh Phước (Hà Tĩnh)
Thánh lễ Cao điểm Tuần Chầu giáo xứ Kẻ Mui: 14 tân tòng lãnh nhận các Bí Tích Khai Tâm

  Hỗ trợ Web GPVinh 

  Nghe Lời Chúa 


  5 phút suy niệm 


  Các Giờ Kinh Phụng Vụ 


  Vị Thánh trong ngày 


  Web Lam Hồng 


  Đăng nhập/Đ. ký 
Bí danh
Mật khẩu
Mã kiểm traMã kiểm tra
Lặp lại mã kiểm tra
Ghi nhớ

  Giáo Lý - Đức Tin 


  Bác ái xã hội - Caritas 


  Tài liệu mới 
  Danh sách các thầy khóa XII được truyền chức Phó tế
  ThÆ° Rao Truyền chức Phó tế khóa XII
  ThÆ° Rao Truyền chức Phó tế khóa 12
  HÆ°á»›ng dẫn Mục vụ Thánh nhạc
  "Sống Và Yêu Thật Lòng" / Lm. Micae – Phaolô Trần Minh Huy, PSS
  Tông Huấn Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu ThÆ°Æ¡ng) của Đức Phanxicô
  Yêu ThÆ°Æ¡ng là sứ mệnh của chúng ta - Để gia đình sống dồi dào
  Văn bản Đàng Thánh Giá do ĐTC chủ sá»± ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 03/04/2015
  Æ n Gọi Và Sứ Mạng Của Gia Đình Trong Giáo Há»™i Và Trong Thế Giá»›i Ngày Nay
  ÄÃ ng Thánh Giá thứ Sáu Tuần Thánh năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ - 2015
Xem tiếp...

  Radio Công giáo 



Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net