GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


Xem tiếp...
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Năm 2024
T2T3T4T5T6T7CN
    1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31    
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 29
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 029
 Lượt tr.cập 055695495
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Chuyên mục » Tài liệu, sÆ°u khảo 03.05.2024
Các mối tương quan và các giá trị của Gia Đình theo Thánh Kinh
17.04.2009

Cha Raniero Cantalamessa
Cha Raniero Cantalamessa
Thuyết trình về Gia Đình của Cha Raniero Cantalamessa trong Đại Hội Thế Giới Lần thứ VI về Gia Đình (Mexico 14.01.2009).
------------------------------------

Bài nói chuyện của tôi chia làm 3 phần. Trong phần thứ nhất, tôi sẽ xin minh hoạ kế hoạch khởi thủy của Thiên Chúa trên Hôn Nhân và Gia Đình và cách thức mà kế hoạch nầy được thực hiện trong lịch sử dân Israel. Trong phần thứ hai, tôi sẽ xin nói về việc tóm tắt do Chúa Kitô thực hiện và về cách thức việc nầy đươc giải thích và được sống trong lòng cộng đồng Kitô giáo Tân Ước. Trong phần thứ ba, tôi sẽ cố gắng xem xét những gì mạc khải Kinh Thánh có thể mang lại giải đáp cho những vấn đề hiện nay về Hôn Nhân và Gia Đình.

PHẦN THỨ NHẤT

HÔN NHÂN và GIA ĐÌNH : KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA
VÀ NHỮNG ĐIỀU CON NGƯỜI THỰC HIỆN TRONG CỰU ƯỚC

1. KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA

Người ta biết rằng Sách Sáng Thế Ký chứa Ä‘á»±ng hai trình thuật cuá»™c Tạo dá»±ng câp con người đầu tiên,trở ngược về hai truyền thống khác niệt nhau : Truyền thống Ya-vê (thế ká»· X trÆ°á»›c CN) và truyền thống gần đây hÆ¡n (thế ká»· VI trÆ°á»›c CN).

Trong truyền thống tÆ° tế (St 1,26 – 28), người nam và người nữ được dá»±ng nên cùng má»™t lúc, chứ không phải kẻ trÆ°á»›c người sau ; má»™t tÆ°Æ¡ng quan được nảy sinh giữa « là người nam và người nữ Â» và « là hình ảnh của Thiên Chúa Â» : « Thiên Chúa đã dá»±ng nên con người theo hình ảnh Người ; giống hình ảnh Thiên Chúa, Người dá»±ng nên con người ; người nam và người nữ, Người dá»±ng nên họ Â». Ở đây tính cứu cánh đầu tiên của sá»± kết hợp giữa người nam và người nữ là sinh sôi nẩy nở và tràn đầy mặt đất.

Trong truyền thống Ya-vê (St 2, 18 – 25), người nữ được rút ra từ người nam ; việc dá»±ng nên hai giá»›i tính được xem nhÆ° má»™t phÆ°Æ¡ng thuốc cho sá»± cô Ä‘Æ¡n (« người nam ở má»™t mình thì không tốt . Ta phải làm cho nó má»™t trợ thủ xứng hợp vá»›i nó Â»). Dấn nhấn trÆ°á»›c tiên không được đặt trên nhân tố sinh đẻ, nhÆ°ng là trên nhân tố kết hợp (« Người nam gắn bó vá»›i vợ mình và họ trở nên má»™t xÆ°Æ¡ng thịt Â»). Má»—i người có tá»± do trÆ°á»›c giá»›i tính của riêng mình và giá»›i tính của người kia : "Cả hai đều trần truồng, người đàn ông và vợ mình, và họ không thấy mắc cỡ trÆ°á»›c mặt nhau".

Không có nÆ¡i nào trong hai văn bản làm ta liên tưởng đến sá»± lệ thuá»™c của người nữ vào người nam, trÆ°á»›c khi phạm tá»™i : cả hai người đều trên bình diện bình đẳng vá»›i nhau, ngang hàng vá»›i nhau tuyệt đối, cho dù theo nhÆ° trong truyền thống Ya-vê, khởi đầu từ người nam.

Cách giải thích thuyết phục nhất về lý do tại sao của việc Thiên Chúa «can thiệp» phân biệt thành hai giá»›i tính nầy, tôi đã tìm thấy được không phải nÆ¡i má»™t nhà chú giải, mà là nÆ¡i má»™t nhà thÆ¡, Paul Claudel :

« Kẻ kiêu căng nầy : không có cách gì khác làm cho nó hiểu được người lân cận, làm cho nó vào sâu trong da thịt. Không còn cách nào khác làm cho nó hiểu sá»± phụ thuá»™c vào nhau, sá»± cần thiết và nhu cầu, má»™t người khác trên nó, luật lệ trên nó của hữu thể khác biệt ấy chẳng vì lý do nào khác ngoài lý do nó hiện hữu Â» (P.Claudel, Le soulier de satin, a. III. sc.8 (éd. La Pléiade, II, Parigi 1956, p. 804)

« Mở ra cho phái tính khác là bÆ°á»›c đầu để mở ra cho người khác, tức là người lân cận, cho đến Người Khác viết hoa, tức là Thiên Chúa. Hôn nhân ra đời dÆ°á»›i dấu hiệu khiêm nhường. Nó là sá»± thừa nhận sá»± lệ thuá»™c của nó và do đó, sá»± lệ thuá»™c của thân phận thụ tạo của nó. Yêu má»™t người nữ hoặc má»™t người nam tượng trÆ°ng cho hành vi khiêm tốn căn bản nhất. Đó là làm cho mình nên người ăn xin và nói vá»›i người kia : Â«Anh/em không còn đủ cho chính mình nữa. Anh/em cần đến em/anh, cần đến hữu thể của em/anh Â». Theo nhÆ° Schleimacher suy nghÄ©, nếu bản chất của tôn giáo trong « cảm giác lệ thuá»™c Â» (Abhaengigheisgefuehl) ở trÆ°á»›c mặt Chúa, thì giá»›i tính con người là trường học tôn giáo đầu tiên.

Cho tá»›i nay là kế hoạch của Thiên Chúa. NhÆ°ng người ta không thể giải thich được Ä‘oạn tiếp của Kinh Thánh nếu nhÆ° cùng lúc vá»›i trình thuật cuá»™c tạo dá»±ng, chúng ta không để ý tá»›i sá»± sa ngã, nhất là những gì đã được nói về người nữ : â€œTa sẽ nhân lên những Ä‘au Ä‘á»›n khi ngÆ°Æ¡i mang thai và ngÆ°Æ¡i sẽ sinh con trai trong Ä‘au Ä‘á»›n . Lòng tham của ngÆ°Æ¡i sẽ đẩy ngÆ°Æ¡i về phía chồng người và nó sẽ thống trị ngÆ°Æ¡i Â» (St 3,16). Ưu thế của người nam trên người nữ là môt phần của tá»™i lá»—i con người, không phải trong kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo Ä‘iều nầy vá»›i những lời ấy. Người không chuẩn y Ä‘iều đó.

 2. NHá»®NG ĐIỀU CON NGƯỜI THá»°C HIỆN

Kinh Thánh là má»™t cuốn sách của Thiên Chúa và con người, bởi vì tác giả của nó là Thiên Chúa và con người, nhÆ°ng cÅ©ng vì nó mô tả, hoà trá»™n vào nhau, sá»± trung thành của Thiên Chúa và sá»± bất trung của con người ; không chỉ qua chủ thể nó tả lại, mà còn qua đối tượng của Sách Thánh. Điều đó đặc biệt đập vào mắt khi người ta so sánh kế hoạch của Thiên Chúa về Hôn Nhân và Gia Đình vá»›i việc áp dụng cụ thể trong lịch sá»­ dân riêng.

Tưởng cÅ©ng nên nêu lên những Ä‘iểu ngu đần ngá»› ngẩn và những lầm lạc của con người để khỏi phải quá ngạc nhiên bởi những gì Ä‘ang xảy ra chung quanh chúng ta ; và cÅ©ng bởi vì đó là chứng cứ cho thấy hôn nhân và gia đình là những cÆ¡ chế, ít ra là trong thá»±c hành, tiến hoá theo thời gian nhÆ° tất cả mọi khía cạnh khác của đời sống xã há»™i và tôn giáo. Vẫn ở trong Sách Sáng Thế, ta đã thấy Lamech, con của Cain vi phạm chế Ä‘á»™ má»™t vợ má»™t chồng khi lấy hai vợ. Ông Noê cùng vá»›i gia đình dường nhÆ° là má»™t ngoại lệ giữa sá»± thối nát chung ở thời đại ông sống. Chính các tổ phụ Abraham và Giacóp cÅ©ng có những con cái từ nhiều bà vợ. Môsê cho phép thá»±c hành ly dị. David va Salomon có cả má»™t hậu cung hùng hậu.

NhÆ°ng người ta quan sát những lệch lạc nầy, nhÆ° vẫn thường làm nhÆ°  thế, ở chóp đỉnh xã há»™i giữa các thủ lãnh, hÆ¡n là ở cấp Ä‘á»™ bình dân, mà vá»›i họ ý tưởng hôn nhân má»™t vợ má»™t chồng nguyên thủy phải thành luật, không có ngoại lệ. Các Sách Khôn Ngoan – Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Siracide (Giáo SÄ©) – hÆ¡n là các sách lịch sá»­ (đề cập đến các thủ lãnh) cho phép chúng ta có được hình ảnh về những  quan hệ và giá trị gia đình được cân nhắc suy xét và được sống ở Israel. : trung thành trong hôn nhân; giáo dục con cái; tôn kính cha mẹ. Giá trị cuối cùng nầy cấu thành má»™t trong mười giá»›i răn: "Hãy thảo kính cha mẹ”.

Còn hÆ¡n là những vựơt rào vi phạm cụ thể ở mức Ä‘á»™ cá thể, sá»± rời xa lý tưởng nguyên thủy hiện rõ trong khái niệm căn bản mà người ta có về hôn nhân ở Israel. Việc làm cho hoá ra tối tăm chính liên quan tá»›i hai Ä‘iểm chủ yếu : Điểm thứ nhất là hôn nhân, từ cứu cánh, trở thành phÆ°Æ¡ng tiện. Cá»±u Ước, trong tổng thể của nó, coi hôn nhân nhÆ° “má»™t cấu trúc quyền bính theo kiểu gia trưởng, chủ yếu để làm cho bá»™ tá»™c tồn tại mãi. Chính trong ý nghÄ©a nầy mà ta phải hiểu việc thành lập tá»™c Lêvi (Đnl 25, 5 -10), lập ra việc lấy vợ lẽ (St 16) và chế Ä‘á»™ Ä‘a thê tạm thời. Lý tưởng má»™t sá»± hiệp thông đời sống giữa người nam và người nữ, đặt nền tảng trên tÆ°Æ¡ng quan cá nhân và  lẫn nhau không bị bỏ quên, nhÆ°ng bị đặt xuống hàng thứ yếu sau lợi ích của con cái.

Việc làm cho hoá ra tối tăm thứ hai và sâu xa được nối kết với thân phận người phụ nữ: từ người bạn đời của ngươi đàn ông, được phú cho một phẩm giá bình đẳng, người phụ nữ ngày càng tỏ ra lệ thuộc đàn ông và theo ý đàn ông. Người ta có thể nhìn thấy điều đó tận trong lời ca tụng người phụ nữ trong Sách Châm Ngôn: “Tìm đâu được người đàn bà…Nàng qúy hơn châu ngọc…” (Cn 31,10 tt). Lời ca tụng nầy hoàn toàn là theo ý người đàn ông. Kết luận là : phúc thay người đàn ông nào có được một người vợ như thế! Nàng dệt cho ông những y phục đẹp đẽ, làm cho nhà cửa của ông danh giá, làm ông nở mặt nở mày với bạn bè. Tôi không tin rằng các phụ nữ ngày nay sẽ phấn khởi vì lời ca tụng nầy.

Các tiên tri, đặc biệt là tiên tri Ôsê, Isaia và Giêrêmia, đã đóng một vai trò quan trọng khi đem ra lại ánh sáng kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Với việc nhìn nhận trong sự kết hợp của người nam và người nữ sự tượng trưng cho giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Người, một cách gián tiếp các tiên tri nầy đặt lại ở vị trí hàng đầu những giá trị của tình yêu lẫn nhau, của sự trung thành và sự không thể chia lìa vốn là đặc trưng thái độ của Thiên Chúa đối với Israel. Tất cả các giai đoạn và những sự thăng trầm của tình yêu vợ chồng được gợi lên và được sử dụng trong mục đích nầy : sự say đắm của tình yêu thời kỳ chớm nở trong đính hôn (Gr 2,2); niềm vui tròn đầy ngày tiệc vui thành hôn (Is 72,5); bi kịch đổ vỡ (Is 2,4 tt) và cuối cùng sự tái sinh đầy tràn hy vọng của tình xưa nghĩa cũ (Os 2,16;Is 54,8).

Tiên tri Malakia chỉ cho thấy những ảnh hưởng có lợi mà thông điệp tiên tri có thể đem đến cho hôn nhân con người và nhất là cho thân phận người phụ nữ. Thông điệp viết : "Đức Chúa là chứng nhân giữa anh và người nữ thời trai trẻ của anh, mà anh đã phản bội, mặc dầu nàng đã là bạn trăm năm của anh và là người phụ nữ giao ước của anh. Chẳng phải đã là một hữu thể duy nhất, có xương thịt và hơi thở sự sống? Và hữu thể duy nhất nầy, nó kiếm tìm điều gì? Một hậu duệ mà Thiên Chúa ban cho! Hãy tôn trọng đối với cuộc đời anh và người vợ thời trai trẻ của anh, chớ phản bội nàng!” (Mk 2,14 – 15)

Chính dưới ánh sáng của truyền thống tiên tri nầy mà thích hợp cho việc đọc Sách Nhã Ca. Nó tượng trưng cho sự tái sinh nhãn quan hôn nhân như là sự hấp dẫn lẫn nhau, như eros, như niềm say mê của người nam trước người nữ (trong trường hợp nầy, cũng là niềm say mê của người nữ trước người nam); một nhãn quan hiện diện trong trình thuật cũ xưa nhất cuộc tạo dựng.

Mặt khác, một khoa chú giải hiện đại nào đó sẽ lầm lẫn khi giải thích Nhã Ca chỉ bằng những từ ngữ nói về tình yêu nhân loại giữa một người nam là một người nữ. Tác giả Sách Nhã Ca tự đặt mình ở tâm lịch sử tôn giáo của dân ông, nơi tình yêu con người đã được các tiên tri coi như là một ẩn dụ của giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Người. Tiên tri Osê đã biến câu chuyện hôn nhân của chính mình thành một ẩn dụ các quan hệ giữa Thiên Chúa và Israel. Làm sao tưởng tượng được rằng tác giả Sách Nhã Ca lại có thể bỏ tất cả những điều đó đi được? Đọc sách Nhã Ca huyền bí, vốn rất được truyền thống của Israel và Giáo Hội yêu thích, do vậy không phải là một cấu trúc thượng tầng đến sau, mà một cách nào đó đã mặc nhiên có trong sách. Thay vì rút đi bất cứ điều gì trong sự tán dương tình yêu con người, sách còn phong ban cho tình yêu con người một nét huy hoàng và nét đẹp mới mẻ.



PHẦN THỨ HAI

 HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TÂN-ƯỚC


1. TÓM TẮT HÔN NHÂN TRONG CHÚA KITÔ

Thánh Irênê giải thích “sự tóm tắt mọi sự nầy - anakephalaiosis” được thực hiện trong Chúa Kitô (Ep 1,10) như là một “lấy lại mọi sự từ đầu để dẫn chúng tới sự thành toàn của chúng”. Khái niệm nầy bao hàm đồng thời một tính liên tục và một tính mới lạ khi có liên quan đến hôn nhân, được thực hiện một cách gương mẫu trong công trình của Chúa Kitô.

1.1 Tính liên tục

Chương 19 Phúc Âm theo Thánh Matthêu tự nó cũng đã đủ để minh họa hai khía cạnh của viêc tóm tắt nầy. Trước hết chúng ta hãy xem Chúa Giêsu lấy lại mọi sự từ khởi đầu như thế nào.

“Những người Biệt phái đến gần Người và hỏi Người để thử thách Người : “Có được phép rẫy vợ mình vì bất kỳ lý do gì chăng?”. Người đáp : "Các ông đã không đọc thấy rằng Đấng Tạo Hoá, ngay từ khởi thủy, đã dựng nên họ người nam và người nữ [St 1,27] và Chúa nói với họ : Vì thế người nam sẽ bỏ cha mẹ mình để gắn bó với vợ mình và cả hai chỉ còn là một xác thịt duy nhất sao? [St 2,24]. Vì vậy họ không còn là hai, nhưng là một huyết nhục mà thôi. Vậy thì! Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được tách nó ra” (Mt 19, 3 – 6).

Chúa Giêsu trả lời cho các đối thủ vốn chỉ biết suy luận trong lãnh vá»±c bị bó hẹp của má»™t khoa ngụy biện thuá»™c trường phái (quanh quẩn ở việc có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do gì hay là vẫn phải có má»™t lý do rõ ràng và nghiêm túc) bằng việc lấy lại vấn đề ở gốc rá»…, từ khởi đầu. Trong các trích dẫn của Người, Chúa Giêsu tham chiếu hai trình thuật về việc thiết lập hôn nhân, lấy các yếu tố của cả trình thuật nầy lẫn trình thuật khi và khởi từ đó, nhÆ° chúng ta đã thấy, Người Ä‘Æ°a ra ánh sáng khía cạnh hiệp thông  những con người.

Bản văn tiếp theo, về vấn đề ly dị, cũng đi theo chiều hướng nầy. Chúa Giêsu tái khẳng định sự trung thành và sự không thể phân ly của mối dây liên kết hôn nhân, vượt qua cả thiện ích của lời mà qua đó chế độ đa thê và ly dị đã được biện minh trong quá khứ.

Những người Biệt-phái bắt bẻ Người : "Tại sao Ông Môsê đã truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ - Người bảo họ : "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không phải như vậy. Tôi nói cho các ông biết : ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19, 7 – 9).

Bản văn song song của Mác-cô cho thấy làm sao, theo Chúa Giêsu, trong trường hợp ly dị, người nam và người nữ được đặt trên một bình diện bình đẳng tuyệt đối : "Ai rẫy vợ mình và cưới một phụ nữ khác làm vợ, thì phạm tội ngoại tình với vợ mình; và nếu một người vợ ly dị chồng mình và lấy một người khác làm chồng, thì người nữ đó phạm một tội ngoại tình”.

Tôi không ngừng lại ở câu “ngoại trừ khi phạm tội ngoại tình” (porneia), bởi vì như mỗi người đều biết, các Giáo Hội Chính Thống và Tin Lành giải thích câu nầy một cách khác biệt với Giáo Hội Công giáo. Đúng ra phải nhấn mạnh “nền tảng bí tích mặc nhiên của hôn nhân” được trình bày trong câu trả lời của Chúa Giêsu. Những lời “điều gì Thiên Chúa đã kết hợp” khẳng định rằng hôn nhân không phải là một thực tại đơn thuần thế tục chỉ do kết quả ý muốn của con người. Ở đây có một chiều kích linh thánh đi lên tận đến Thánh ý Chúa.

Việc nâng hôn nhân lên hàng "bí tích" do vậy không dựa trên lý lẽ yếu ớt về sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana và trên đoạn 5 thư gửi tín hữu Êphêsô. Một cách nào đó nó bắt đầu với Chúa Giêsu ở dưới đất. Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II có lý khi Người định nghĩa hôn nhân “là bí tích cũ xưa nhất”.

1.2 Nét mới mẻ

Cho tới nay, chúng ta đã gợi lên tính liên tục. Nhưng tính mới lạ thì gồm những gì vậy? Một cách nghịch lý, sự mới lạ hệ tại ở sự tương đối hoá hôn nhân. Hãy cùng nghe bản văn của Thánh Mat-thêu sau đây:

“Các môn đệ nói với Người : “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Người nói với họ : "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu, mới hiểu được. Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19, 10 12).

Qua những lời nầy, Chúa Giêsu thiết lập một trạng thái cuộc sống thứ hai, biện minh cho nó bằng việc Nươc Trời đến trên trần gian. Điều nầy không thủ tiêu khả năng kia,- hôn nhân- nhưng tương đối hoá nó.. Điều nầy xảy ra giống như ý tưởng quốc gia trong lãnh vực chính trị : nó không bị bãi bỏ, nhưng được tương đối hoá một cách căn bản trong việc mạc khải sự hiện diện cùng thời, trong lịch sử, của một vương quốc Thiên Chúa.

Để được công nhận có giá trị, sá»± tiết dục tá»± nguyện do vậy không cần người ta phải phủ nhận hoặc coi thường hôn nhân (má»™t số tác giả xÆ°a, trong các bài viết  về đức trinh khiết, đã rÆ¡i vào sai lầm nầy). Đức trinh khiết, trái lại, chỉ có ý nghÄ©a nhờ sá»± khẳng định đồng thời của sá»± thiện hảo hôn nhân. Việc thiết lập luật Ä‘á»™c thân và đức trinh khiết vì NÆ°á»›c Trời làm tăng giá trị hôn nhân, vì nó làm cho hôn nhân trở thành má»™t chọn lá»±a, má»™t Æ¡n gọi chứ không còn chỉ là má»™t nghÄ©a vụ đạo đức luân lý, mà ở [xã há»™i] Israel không ai được miá»…n trừ mà lại không bị tố cáo là vi phạm giá»›i răn Đức Chúa Trời.

Cần phải lÆ°u ý má»™t Ä‘iều mà người ta thường hay quên. Luật Ä‘á»™c thân và đức trinh khiết có nghÄ©a là từ bỏ hôn nhân, chứ không phải là từ bỏ giá»›i tính vẫn luôn mang đầy ý nghÄ©a phong phú, ngay cả khi giá»›i tính được sống theo cách khác. Người nam nào đã chọn sống Ä‘á»™c thân và người nữ nào đã chọn sống trinh khiết cÅ©ng trải nghiệm được nét quyến rÅ© và do vậy trải nghiệm đựơc sá»± phụ thuá»™c  so vá»›i giá»›i kia và chính đó là cái làm cho sá»± chọn lá»±a đức khiết tịnh của họ có ý nghÄ©a và chính vì thế mà nó qúy giá.

1.3 Chúa Giêsu, kẻ thù của gia đình?

Giữa nhiều luận điểm được đưa ra những năm gần đây nhất trong lãnh vực “nghiên cứu thứ ba về Chúa Giêsu lịch sử”, có luận đề về một Giêsu được coi là đã rẫy bỏ gia đình tự nhiên và tất cả mọi liên hệ thân thích họ hàng của Người, lấy danh nghĩa là đã thuộc về một cộng đồng khác biệt, nơi đó Thiên Chúa là Cha và các môn đệ tất cả đều là anh chị em, đề ra cho các môn đệ Người một cuộc đời nay đây mai đó, giống như các triết gia phái khuyển nho cũng làm như vậy bên ngoài Israel.

Thoạt nhìn đã thấy có những lời nói gây bối rối  trong các Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói : "Ai theo Ta mà không ghét cha, mẹ, vợ con, anh chị em và cho đến cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14,26). Những lời nói cứng rắn hết sức ấn tượng, chắc chắn rồi, nhÆ°ng thánh sá»­ Matthêu vá»™i  vàng giải thích ý nghÄ©a của từ “ghét” : “Ai yêu mến cha hoặc mẹ mình hÆ¡n Ta, thì không xứng vá»›i Ta. Ai yêu con trai hoặc con gái mình hÆ¡n Ta, thì không xứng vá»›i Ta” (Mt 10,37). Chúa Giêsu do vậy không đòi phải ghét cha mẹ hoặc con cái, nhÆ°ng là không được yêu mến hÆ¡n đến mức từ chối Ä‘i theo Người vì họ.

Một đoạn khác gây bối rối. Một hôm Chúa Giêsu nói với một người : “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa : "Cho phép con trước hết đi chôn cất cha con đã”. Nhưng Người nói với người ấy : ”Hãy để kẻ chết chôn người chết của họ; còn anh, anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa” (Lc 9,59 tt). Đối với một số người chỉ trích, trong đó có giáo sĩ Do Thái người Mỹ Jacob Neusner mà Đức Beneđictô XVI đối thoại với ông trong cuốn sách Chúa Giêsu Nazaret của Người, thì đó là một đòi hỏi xúc phạm, một sự không vâng lời Thiên Chúa là Đấng ra lệnh chăm sóc cha mẹ, một vi phạm hiển nhiên các bổn phận gia đình.

Người ta có thể đồng ý má»™t Ä‘iều vá»›i giáo sÄ© Neusner : những lời nầy của Chúa Kitô không giải thích được nếu người ta chỉ coi Người nhÆ° má»™t con người, dù là người ngoại lệ. Chỉ có Thiên Chúa má»›i có thể đòi hỏi người ta yếu mến Người hÆ¡n là má»™t người cha và rằng để Ä‘i theo Người, người ta còn phải từ bỏ cả việc có mặt dá»± chôn cất người đó. Đối vá»›i các tín hữu, thêm má»™t  bằng chứng cho thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa; vá»›i Neusner, đó là lý do khiến người ta không thể Ä‘i theo Người.

TrÆ°á»›c những đòi hỏi nầy của Chúa Giêsu, sá»± bối rối cÅ©ng phát sinh từ sá»± việc người ta không để ý đến sá»± khác biệt giữa những gì Người đòi hỏi nÆ¡i mọi người má»™t cách không rõ ràng phân biệt và những gì Người chỉ đòi hỏi nÆ¡i má»™t số người được gọi để chia sẻ đời sống trọn hiến cho NÆ°á»›c Trời, nhÆ° vẫn còn xảy ra ngày nay trong Giáo Há»™i. Người ta cÅ©ng phải nói Ä‘iều tÆ°Æ¡ng tá»± về việc từ bỏ hôn nhân :  Người không áp đặt đềiu nầy và không đề nghị vá»›i mọi người không phân biệt, nhÆ°ng chỉ đề nghị vá»›i những ai chấp nhận nên giống nhÆ° Người, phục vụ trọn vẹn NÆ°á»›c Trời (x. Mt 19,10 12).

Tất cả những nghi ngờ về thái Ä‘á»™ của Chúa Giêsu đối vá»›i gia đình và hôn nhân rÆ¡i rụng, nếu chúng ta để  ý đến những Ä‘oạn Phúc Âm khác. Chúa Giêsu là người nghiêm khắc nhất trong hết mọi người về những gì liên quan đến sá»± không thể chia lìa của hôn nhân và nhắc nhở mạnh mẽ Ä‘iều răn tôn kính cha mẹ mình. Người lên án việc viện cá»› tôn giáo mà không thá»±c hành bổn phận giúp đỡ cha mẹ (x. Mc 7, 11 – 13). Biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã thá»±c hiện để làm dịu Ä‘au khổ của các ông bố  (ông Giai-rô, ông bố người bất toại), của các bà mẹ (phụ nữ xứ Canaan, bà goá Naim) hoặc của các người anh và các bà chị (các chị của Lazarô) và do vậy, để tôn vinh những mối liên hệ họ hàng thân thuá»™c. HÆ¡n má»™t lần, Người chia sẻ Ä‘au khổ của các bậc cha mẹ đến ná»—i khóc cùng họ.

Ở một thời đại như ngày nay khi mà mọi sự dường như muốn làm suy yếu các mối liên hệ và các giá trị gia đình, chỉ còn thiếu một nỗi là Chúa Giêsu và Phúc Âm liên minh nhau chống lại gia đình! Chúa Giêsu đến đem lại cho hôn nhân vẻ đẹp nguyên thủy, để củng cố hôn nhân,chứ không làm nó suy yếu.

2. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG GIÁO HỘI THỜI CÁC TÔNG ĐỒ

Như chúng ta đã làm đối với kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa và về sự tóm tắt do Chúa Kitô thực hiện, bây giờ chúng ta hãy tìm xem có được đón nhận và sống thế nào trong cuộc sống và trong giảng dạy giáo lý của Giáo Hội, được gắn liền lúc nầy với Giáo Hội thời các tông đồ. Ở đây Thánh Phaoô là nguồn thông tin chính cho chúng ta, bởi vì Ngài đã phải đương đầu vơi vấn nạn nầy trong một số thư của Ngài,nhất là trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.

Thánh Tông Đồ phân biệt những gì đến trá»±c tiếp từ Chúa Giêsu, từ những áp dụng đặc biệt mà Ngài làm trong bối cảnh má»›i mà Phúc Âm được rao giảng. Trong trường hợp thứ nhất, chính tính chất không thể phân ly của hôn nhân được đề cập : "Còn vá»›i những người đã kết hôn, tôi ra lệnh nầy, không phải là tôi, mà là Đức Chúa : vợ không được bỏ chồng; mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở Ä‘á»™c thân hoặc phải làm hòa vá»›i chồng; và chồng cÅ©ng không được rẫy vợ” (I Cor 7,10 11). Trong trường hợp thứ hai, chúng ta nhìn thấy những chỉ dẫn Ngài ban khi có hôn nhân giữa ngừơi có Đạo và người ngoài Đạo; và những bố trí liên quan đến những người sống Ä‘á»™c thân và trinh nữ : "Còn vá»›i những người đã kết hôn, v..v…Vế vấn đề Ä‘á»™c thân, v..v…” (x. I Cor 7,10 – 11 ;I Cor 7,25). Từ thời Chúa Giêsu, Giáo Há»™i thời các Tông Đồ cÅ©ng đã tiếp nhận má»™t sá»± má»›i mẻ, nhÆ° chúng ta đã thấy, hệ ở sá»± thiếp lập má»™t tình trạng đời sống thứ hai : Độc thân và trinh khiết vì NÆ°á»›c Trời. Vá»›i những người ấy, Thánh Phaolô - bản thân Ngài cÅ©ng không lập gia đình – dành phần cuối chÆ°Æ¡ng 7 thÆ° của Ngài. Căn cứ vào câu : "Tôi mong Æ°á»›c mọi người đều nhÆ° tôi; nhÆ°ng má»—i người đón nhận từ Thiên Chúa đặc sủng riêng, kẻ thế nầy, người thế khác” (I Cor 7,7), má»™t số người  nghÄ© rằng Thánh Tông Đồ xem hôn nhân và sá»± trinh khiết nhÆ° hai đặc sủng. Không đúng nhÆ° vậy! Các trinh nữ đã đón nhận đặc sủng đức trinh khiết, còn những người vợ chồng có được những đặc sủng khác (hiểu ngầm : không phải là đặc sủng đức trinh khiết). Thật có ý nghÄ©a khi thần học Giáo Há»™i luôn coi đức trinh khiết nhÆ° má»™t đặc sủng, chứ không phải là má»™t bí tích và coi hôn nhân nhÆ° má»™t bí tích, chứ không phải là má»™t đặc sủng.

Văn bản thư gửi tín hữu Êphêsô có một trọng lượng đáng kể trong tiến trình sẽ dẫn tới (khá lâu sau đó) việc công nhận tính chất bí tích của hôn nhân : "Chính vì vậy ngừơi đàn ông sẽ lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình; và cả hai sẽ thành một xương một thịt: Mầu Nhiệm nầy thật cao cả: tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5, 31 – 32). Đây không phải là một lời khẳng định đơn độc hoặc ngẫu nhiên, do việc dịch không rõ ràng từ “mầu nhiệm” (mysterion) sang tiếng La-tinh bí tích (sacramentum). Hôn nhân như biểu tượng quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội đặt nền tảng trên toàn thể một loạt những lời được loan báo và những dụ ngôn, trong đó Chúa Giêsu đã áp dụng cho chính mình danh hiệu hôn phu, mà các tiên tri đã gán cho Thiên Chúa.

Trong khi cộng đồng Công giáo lớn lên và dần dà nên vững chắc, người ta thấy triển nở cả một mục vụ và một linh đạo về gia đình. Những văn bản ý nghĩa nhất cho chủ đề nầy là các thư gửi tín hữu Côlôsê và Êphêsô. Hai mối quan hệ căn bản cấu thành gia đình được đưa ra ánh sáng ở trong hai thư ấy : tương quan vợ - chồng và tương quan cha mẹ - con cái. Về tương quan thứ nhất [ vợ - chồng], Thánh Tông Đồ viết: “Vợ chồng hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Chúa Kitô. Ước gì người vợ phụ tùng người chồng như Giáo Hội phục tùng Chúa Kitô; các bà vợ cũng phải phục tùng các người chồng trong mọi sự. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội : Người đã phó nộp mình vì Giáo Hội”.

Thánh Phaolô nhắn nhủ người chồng “yêu thương” vợ mình (điều nầy bình thường với chúng ta), nhưng tiếp sau đó Ngài nhắn nhủ người vợ “phục tùng”chồng mình và điều ấy dường như không thể chấp nhận được trong một xã hội ý thức mạnh mẽ về sự bình đẳng giữa các giới. Về điểm nầy, Thánh Phaolô, ít là một phần, chịu các điều kiện tập tục thời đại Ngài sống. Dù vậy cũng phải xem lại khó khăn nầy bằng việc lưu ý tới câu ở đầu thư : “Vì lòng tôn kính Chúa Kitô, hạy phục tùng lẫn nhau”, thiết lập một tương quan lẫn nhau trong sự phục tùng cũng như trong tình yêu.

Về mối tương quan cha mẹ - con cái, Thánh Phaolô nhắc lại những lời khuyên răn truyền thống của văn chương sách Khôn ngoan : "Hỡi con cái, hãy vâng lời cha mẹ, trong Đức Chúa: đó là điều chính đáng. Hãy tôn vinh cha ngươi và mẹ ngươi. (Cn 6,20), đó là giới răn đầu tiên nối liền với một lời hứa : để ………(Xh 20,12). Hỡi các bậc làm cha làm mẹ, đừng làm cho con cái tức giận; nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 1 – 4).

Các thư mục vụ, đặc biệt là Thư gửi Titô, cho thấy những chi tiết cho mỗi phạm trù những con người :những người vợ, những người chồng, các giám mục và linh mục, những người cao tuổi, những thanh thiếu niên, các bà goá, các ông chủ, những người nô lệ ( x. Tt 2, 1 – 9).Quả thật, ngay cả các nô lệ cũng làm thành phần gia đình trong quan niệm mở rộng về gia đình.

Ngay cả trong Giáo Hội tiên khởi, lý tưởng hôn nhân được Chúa Giêsu đề xuất lại, sẽ không được thực hiện mà không gặp những bóng tối hoặc chống cự. Nhu cầu mà các Tông Đồ cảm nhận phải nhấn mạnh lên khía cạnh nầy của cuộc sống Kitô giáo làm chứng cho điều ấy, tất nhiên không tính đến trường hợp loạn luân ở Côrintô (x. I Cor 8,1 tt). Nhưng xét tổng thể, các Kitô hữu đã giới thiệu cho thế giới một kiểu mẫu gia đình mới tỏ cho thấy đó là một trong những nhân tố công cuộc rao giảng Tin Mừng.

Tác giả thÆ° gá»­i Diognète ở thế ká»· thứ II khẳng định rằng các Kitô-hữu “lập gia đình nhÆ° mọi người, cÅ©ng có con cái, nhÆ°ng không bỏ rÆ¡i con cái má»›i sinh của họ. Họ chia sẻ cùng má»™t bàn ăn, nhÆ°ng không chung má»™t giường nằm” (V, 6 – 7). Trong cuốn Apologies, Justin Ä‘Æ°a ra lý lẽ rằng chúng ta, các Kitô hữu ngày nay, lẽ ra phải có thể đối thoại vá»›i các nhà cầm quyền chính trị. Ông nói nhÆ° sau : Các Ngài, hỡi những hoàng đế La Mã, các Ngài nhân lên các luật lệ về gia đình, nhÆ°ng chúng cho thấy không hiệu quả để tránh cho gia đình đổ vỡ. Hãy đến mà xem gia đình của chúng tôi và  các Ngài sẽ xác tín rằng Kitô hữu là những đồng minh tốt nhất của cuá»™c cải cách xã há»™i, chứ không phải là kẻ thù của các Ngài. Kết thúc, sau ba thế ká»· bách hại, vị hoàng đế đã tiếp nhận kiểu mẫu Kitô giáo về gia đình trong luật pháp của ông.



PHẦN THỨ BA

NHỮNG GÌ LỜI GIẢNG DẠY KINH THÁNH NÓI VỚI CHÚNG TA HÔM NAY


Việc đọc lại Kinh Thánh trong một buổi tụ họp như cuộc tụ họp nầy, vốn không phải là một cuộc hội nghị các nhà chú giải Kinh Thánh, mà là những người làm công tác mục vụ phục vụ gia đình, không thể chỉ giới hạn vào một đề nghị mới về mạc khải, mà phải có thể soi sáng những vấn nạn ngày nay. Thánh Grégoire Cả nói : « Sách Thánh lớn lên với người đọc nó » (cum legentibus cresci) ; nó vén bức màn những ứng dụng mới càng lúc các vấn đề mới đặt ra. Và người ta có thể nói rằng ngày nay các vấn đề hoặc những khiêu khích thì rất nhiều.

1. LÝ TƯỞNG KINH THÁNH ĐẶT VẤN ĐỀ

Chúng ta đang đối diện với một sự gây tranh cãi có vẻ mang tầm cỡ thế giới với công trình nghiên cứu Kinh Thánh về giới tính, hôn nhân và gia đình. Nghiên cứu của ĐGM Tony Anatrella được gửi cho chúng tôi là những người thuyết trình, nhằm tới hội nghị nầy, đã cho chúng tôi một tóm tắt rất có ích cho chúng tôi. Phải hành xử thế nào trước hiện tượng nầy?

Sai lầm đầu tiên cần tránh, theo ý tôi, là đã tiêu tốn nhiều thời giờ công sức để đụng độ với những thuyềt trái ngược, rút cuộc chỉ làm cho chúng trở nên quan trọng hơn những gì không đáng được như thế. Đối với Denys, việc đưa ra sự thật vẫn luôn hiệu nghiệm hơn là bác bẻ những sai lầm của người khác.

Một sai lầm nữa có lẽ là dựa vào các luật lệ nhà nước để bênh vực những giá trị Kitô giáo. Những Kitô hữu tiên khởi, như chúng ta đã thấy, đã làm thay đổi các luật lệ nhà nước bằng các thói tục của họ ; vì vậy ngày nay chúng ta không thể hy vọng thay đổi các thói tục với các luật lệ nhà nước.

Công Đồng đã khai trương một phương pháp mới: phương pháp đối thoại chứ không phải đối lập với thế giới ; một phương pháp không loại trừ sự tự phê. Trong văn bản, Công Đồng nói rằng Giáo Hội đang cố gắng rút ra được những lợi ích từ những chỉ trích ngay cả của những kẻ đấu tranh chống đối Giáo Hội. Tôi cho rằng chúng ta cũng phải áp dụng phương pháp nầy trong khi thảo luận những vấn đề hôn nhân và gia đình, như hiến chế Gaudium et Spes đã từng làm vào thời nó.

Áp dụng phương pháp đối thoại nầy có nghĩa là tìm từ tận sâu xa những phản đối căn cơ nhất, xem có thể đón nhận một điểm tích cực nào chăng? Chính là phương pháp xưa cũ của Thánh Phaolô gồm ở việc thẩm tra rà soát lại mọi sự và chỉ giữ lại những gì tốt đẹp (x. I Tx 5,21). Đó là những gì xảy ra với chủ nghĩa Marx: Giáo Hội bị thúc đẩy tới việc phát triển học thuyết xã hội của mình và điều tương tự cũng rất có thể sẽ xảy đến với cuộc cách mạng được gọi là « giống » (gender) mà như ĐGM Anatrella lưu ý trong nghiên cứu của Ngài, có nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa Marx và có thể có cùng mục đích.

Sá»± chỉ trích kiểu mẫu truyền thống hôn nhân và gia đình, - dẫn tá»›i những ý kiến không thể chấp nhận được về « khá»­ xây dá»±ng » mà người ta thấy nẩy nở má»—i ngày,- đã khởi đầu vá»›i thuyết thấu thị  (illuminism) và chủ nghÄ©a lãng mạn. Chính là vá»›i những ý hÆ°á»›ng khác nhau, nhÆ°ng cùng chung mục tiêu, mà hai phong trào nầy lên tiếng chống lại hôn nhân truyền thống xét theo quan Ä‘iểm chỉ dành riêng của những « cứu cánh » khách quan nầy, nghÄ©a là con cái, xã há»™i, Giáo Há»™i và quá ít cho chính hôn nhân, trong giá trị chủ quan và nhiều liên hệ. Người ta hỏi các vợ chồng tÆ°Æ¡ng lai đủ mọi sá»±, trừ việc hỏi họ có yêu nhau chăng và có tá»± do chọn lá»±a chăng. Người ta chống lại kiểu mẫu hôn nhân nầy nhÆ° má»™t hiệp Æ°á»›c (thuyết thấu thị) và nhÆ° kết hợp tình yêu (chủ nghÄ©a lãng mạn) giữa vợ chồng.

Nhưng chỉ trích nầy nằm trong ý nghĩa nguyên thủy của Kinh Thánh, chứ không phải ngược lại ! Công Đồng Vatican II đã tiếp nhận đòi hỏi nầy khi công nhận tình yêu đối với nhau và sự hỗ trợ giữa các phối ngẫu, như là điều thiện hảo cũng hàng đầu trong hôn nhân. Trong một trong các bài giáo lý ngày thứ tư, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nói : « Thân thể con người, với giới tính của mình và nam tính cùng nữ tính […] không chỉ là nguồn khả năng sinh sản và sinh đẻ, như trong mọi trật tự tự nhiên, nhưng ngay từ ban đầu đã chứa đựng thuộc tính làm vợ làm chồng tức là diễn tả tình yêu : tình yêu nầy chính là trong đó con người trở thành quà trao ban và nhờ quà tặng ban nầy, hành động trong chính ý nghĩa hữu thể và sự hiện hữu của nó ».

Trong Tông thư Thiên Chúa là Tình Yêu của Người, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI còn đi xa hơn nữa, với việc viết ra những điều sâu xa và mới mẻ về eros trong đời đôi lứa và trong cả những tương quan giữa Thiên Chúa và con người. "Mối lên hệ chặt chẽ nầy giữa eros và hôn nhân trong Kinh Thánh trên thực tế không tìm thấy được cái song song bên ngoài văn chương Kinh Thánh".

Phản ứng tích cực một cách đáng ngạc nhiên với Tông thư nầy của Đức Giáo hoàng cho thấy một trình bày hoà bình về chân lý Kitô giáo mang lại nhiều hoa trái nhiều biết bao hơn là sự bác bẻ sai lầm nghịch lại, ngay cả khi cái nầy sẽ tìm thấy vị trí của nó đúng nơi đúng lúc. Còn lâu chúng ta mới chấp nhận các hậu quả những tiền đề của phong cách nầy rằng bất cứ loại eros nào cũng có thể tạo thành hôn nhân, kể cả hôn nhân giữa hai người cùng giới tính, nhưng sự bác bỏ nầy thủ đắc một sức mạnh khác và một sự đáng tin khác, nếu người ta liên kết nó với việc nhận ra sự tốt lành tận gốc mà vấn đề nầy mang lại và liên kết cả với một sự tự phê lành mạnh.

Trên thá»±c tế, chúng ta không thể im hÆ¡i lặng tiếng về sá»± đóng góp của các Kitô hữu trong việc hình thành cái nhìn thuần túy khách quan nầy về hôn nhân. Uy tín của Thánh Augustinô, được Thánh Tôma Aquinô củng cố về quan Ä‘iểm nầy, cuối cùng đã mang lại má»™t Ä‘iểm tiêu cá»±c cho sá»± kết hợp xác thịt của vợ chồng, được coi nhÆ° phÆ°Æ¡ng tiện truyền tá»™i nguyên tồ và tá»± nó không phải là không có tá»™i « ít là tá»™i nhẹ ». Theo Vị Tiến SÄ© thành Hippone, những người phối ngẫu phải miá»…n cưỡng tiến đến hành vi giao hợp và phải đồng ý chỉ vì đó là phÆ°Æ¡ng tiện duy nhất để có những công dân  má»›i cho nÆ°á»›c nhà và những chi thể má»›i cho Giáo Há»™i.

Một vấn đề khác nữa mà chúng ta có thể coi như vấn đề của mình, đó là phẩm giá bình đẳng giữa người nữ và người nam. Người phụ nữ, như chúng ta đã thấy, ở ngay tâm kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa và trong tư duy của Chúa Kitô, nhưng người nữ hầu như luôn gây thất vọng. Lời Chúa phán với Evà : « Sự khao khát của ngươi đẩy ngươi về phía chồng ngươi và hắn sẽ thống trị trên ngươi » (St 3,16) , đã tỏ ra một cách bi thảm trong suốt dòng lịch sử.

Nơi những đại diện của cái tự xưng là «Cách mạng giống», vấn đề nầy đã dẫn đến những ý kiến điện rồ, như là hủy bỏ việc phân định các giới và thay vào đó bằng sự phân biệt các « giống » (giống đực, giống cái, giống thay đổi) uyển chuyển và chủ quan hơn, hoặc ý kiến giải phóng phụ nữ khỏi giai đoạn ấy, người ta không hiểu rồi còn có thích thú hoặc ước muốn có con cái nữa chăng !).

Vì vậy chính chọn lá»±a đối thoại và tá»± phê cho chúng ta quyền tố giác những kế hoạch nầy nhÆ° là « vô nhân đạo », nghÄ©a là không chỉ nghịch vá»›i ý muốn của Thiên Chúa, mà còn nghịch vá»›i thiện ích của con người. Được thá»±c hiện ở quy mô lá»›n, các kế hoạch nầy sẽ dẫn đến những đổ vỡ không ngờ tá»›i. Hy vọng duy nhất của chúng ta là mong cho lÆ°Æ¡ng tâm ngay lành của má»—i người, hiệp vá»›i « Æ°á»›c ao » của giá»›i kia, vá»›i nhu cầu làm mẹ và làm cha mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong bản tính con người, sẽ kháng lại những âm mÆ°u muốn thay thế Thiên Chúa, do má»™t cảm thức tá»™i lá»—i muá»™n màng nÆ¡i con người, hÆ¡n là vì tôn trọng và yêu thÆ°Æ¡ng thật sá»± đối vá»›i phụ nữ (nhân tiện,những  thuyết nầy gần nhÆ° hoàn toàn đến từ con người !)
 
2. MỘT LÝ TƯỞNG CẦN TÁI KHÁM PHÁ

Với các Kitô-hữu, việc dấn thân khám phá và sống tròn đầy tinh thần Kinh Thánh của hôn nhân và gia đình, theo cách thế có thể giới thiệu nó lại cho thế gian bằng hành động hơn là bằng lời nói, không hề kém quan trọng so với việc dấn thân bênh vực lý tưởng Kinh Thánh nầy.

Hôm nay chúng ta đọc trình thuật về tạo dựng người nam và người nữ dưới ánh sáng mạc khải Ba Ngôi Thiên Chúa. Dưới sự soi sáng nầy, câu Kinh Thánh « Thiên Chúa đã dựng con người theo hình ảnh Người ; theo hình ảnh Thiên Chúa, Người đã tạo dựng con người ; người nam và người nữ, Người đã tạo nên họ » (St 1,27), tỏ cho chúng ta thấy ý nghĩa của nó vốn vẫn cứ bí ẩn và bất định trước Chúa Kitô. Có thể có tương quan nào giữa sự việc là «hình ảnh của Thiên Chúa» và là «người nam và người nữ» ? Thiên Chúa của Kinh Thánh không có bao hàm giới tính. Người không là nam giới và cũng không là nữ giới.

Sự giống nhau là như vậy đó. Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu đòi hỏi sự hiệp thông, sự chia sẻ, yêu cầu một « ta » (moi) và một « người » (toi). Không có tình yêu nào mà lại không phải là tình yêu đối với một ai đó ; ở đâu chỉ có duy nhất một chủ thể, thì không thể có tình yêu, mà chỉ là sự ích kỷ và tự yêu mình. Nơi nào Thiên Chúa bị quan niệm như Luật hoặc Quyền Năng tuyệt đối, thì chẳng cần đền một tính đa dạng con người làm gì (một mình thì vẫn có thể thực thi quyền hành !). Thiên Chúa được Chúa Giêsu Kitô mạc khải, bởi vì là tình yêu, cho nên độc nhất và duy nhất, nhưng Người không cô đơn một mình. Người là một và là ba. Nơi Người đồng tồn tại hiệp nhất và phân biệt, hiệp nhất về bản thể, về ý chí, về ý hướng, nhưng phân biệt về các ngôi vị và đặc tính. Hai người yêu nhau – và tình yêu của người nam và người nữ trong hôn nhân là ví dụ mạnh nhất cho tình yêu ấy – tái hiện một điều gì đó trong những cái mà người ta tìm thây trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là hai ngôi, Chúa Cha và Chúa Con, yêu nhau và sinh ra Chúa Thánh Thần là tình yêu làm nền tảng cho hai ngôi. Một ai đó đã định nghĩa Chúa Thánh Linh như là «Chúng tôi Thiên Chúa», nghĩa là không phải «Ngôi Ba của Ba Ngôi», nhưng là ngôi thứ nhất số nhiều.

Chính trong điều ấy mà cặp hôn nhân loài người là hình ảnh của Thiên Chúa. Người chồng và người vợ trên thực tế là một xương thịt.một tâm hồn, một linh hồn duy nhất, mặc cho sự khác biệt về giới tính và tính cách người. Trong lứa đôi hôn nhân, hiệp nhất và đa dạng hoà hợp với nhau. Vợ chồng đối diện nhau, như một «tôi» và một «người» và họ đối diện với cả phần thế giới còn lại, khởi đầu từ con cái họ sinh ra, như một «chúng tôi». Như thể chỉ có một con người duy nhất, không phải ở số ít mà là ở số nhiều. «Chúng tôi » nghĩa là « mẹ con và ta », « cha con và ta ».

Chính qua ánh sáng nầy mà chúng ta khám phá ra ý nghÄ©a sâu xa của sứ Ä‘iệp các tiên tri liên quan đến hôn nhân con người, vốn vì đó mà là biểu tượng và phản ánh má»™t tình yêu khác, tình yêu Thiên Chúa đối vá»›i dân Người. Điều nầy không hề có nói là ý Ä‘em má»™t ý nghÄ©a huyền bí chất chồng lên má»™t thá»±c tại chỉ thuá»™c về thế gian. CÅ©ng không phải chỉ có tính cách tượng trÆ°ng. Đúng hÆ¡n đó là tỏ cho thấy gÆ°Æ¡ng mặt thật sá»± và mục đích tối hậu của việc tạo dá»±ng con người giống Ä‘á»±c và giống cái ; thoát ra khỏi sá»± cô cô Ä‘Æ¡n cá nhân và khỏi sá»± « ích ká»· » của mình, mở ra cho người kia và ,thông qua trạng thái ngây ngất chóng phai của  sá»± kết hợp xác thịt, nâng mình lên tá»›i Æ°á»›c ao có được tình yêu và niềm vui bất tận.

Đâu là nguyên nhân của sự bất toàn và sự không hoàn thành rời bỏ sự kết hợp xác thịt ở bên trong hôn nhân và ở bên ngoài? Tại sao đà tiến nầy lại luôn rơi xuống lại trên chính nó và tại sao lời hứa về cái vô tận và cái vĩnh cửu luôn bị lừa gạt?

Người xÆ°a đã đặt ra má»™t câu châm ngôn nói lên rất tốt thá»±c tại nầy:  «Sau giao hợp con vật trở nên buồn sầu». Giống nhÆ° mọi con vật, con người trở nên buồn rầu sau khi kết hợp xác thịt.

Thi sÄ© ngoại giáo Lucrèce đã để lại má»™t mô tả không thÆ°Æ¡ng xót về sá»± vỡ má»™ng tiếp theo sau má»—i má»™t lần giao hợp. Sá»± mô tả nầy được thuật lại trong má»™t há»™i nghị dành cho các đôi hôn phối và các gia đình sẽ không  có vẻ chÆ°á»›ng tai gai mắt khi nghe: « Họ siết chặt nhau má»™t cách thèm khát, trá»™n lẫn nÆ°á»›c bọt của nhau và hoà lẫn hÆ¡i thở khi răng va chạm nhau. Cố gắng vô ích, vì không má»™t ai trong hai người có thể tách được gì từ thân xác của người kia, cÅ©ng không thể thâm nhập và tan biến hoàn toàn trong cÆ¡ thể người kia ».

Người ta tìm một phương thuốc cho sự vỡ mộng nầy, song chỉ làm nó thêm trầm trọng. Cũng thể thức ấy, để thay đổi chất lượng hành vi nầy, người ta tăng cường số lượng, qua hết bạn tình nầy sang bạn tình khác. Và người ta làm hỏng hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta về tình dục. Và điều đó đang xảy ra trong văn hoá và trong xã hội ngày nay.

Với tư cách là những Kitô-hữu đích thực, chúng ta có muốn một lần thay cho tất cả, đi tìm một lời giải thích cho sự rối loạn hoạt động tai hại nầy không? Lời giải thích nầy là sự kết hợp tình dục không đươc sống theo cách và theo ý hướng mà Thiên Chúa muốn. Mục đích của Người là, qua sự ngây ngất và tan hoà tình yêu nầy, người nam và người nữ nâng mình lên tới ước ao và có một hình dung trước nhất định về tình yêu vĩnh cửu, và rằng họ hãy nhớ lại họ đến từ đâu và đi về đâu.

Tội lỗi, khởi đầu từ tội của Adong và Evà theo Kinh Thánh, đã băng qua kế hoạch nầy, đã làm ô uế hành vi nầy, nghĩa là đã tước đoạt mất của hành vi nầy sự phong phú đạo đức. Nó biến hành vi nầy thành một hành vi bị kết thúc nơi chính nó, và vì thế mà «không thoả mãn». Người ta đã tách biểu tượng khỏi thực tại tượng trưng của no và lấy đi của nó sự năng động nội tại của nó. Người ta đã cắt xẻo nó. Chưa có lúc nào như trong trường hợp nầy đã xác nhận chân lý lời Thánh Augustin: «Ôi lạy Chúa, Người đã dựng nên chúng con cho Người và lòng chúng con chưa nghỉ ngơi bao lâu nó chưa an nghỉ trong Người ».

Ngay cả những cặp hôn nhân Kitô hữu – có khi còn hơn cả những người khác – không thành công trong việc tìm lại được ý nghĩa nguyên thủy phong phú của kết hợp tình dục do ý tưởng ham muốn nhục dục và tội tổ tông liên kết với hành vi nầy trong nhiều thế kỷ. Không phải trong chứng từ của một ít cặp hôn nhân được canh tân bởi kinh nghiệm họ có về Chúa Thánh Thần và sống đời Kitô hữu có tính cách đặc sủng, mà người ta tìm lại được một điều gì đó về ý nghĩa nguyên thủy của hành vi giao hợp. Một số người còn cả thố lộ với các cặp bạn bè hoặc với cha xứ của họ rằng họ giao hợp với nhau mà miệng lớn tiếng tung hô Thiên Chúa, có khi còn hát xướng nữa. Quả là kinh nghiệm thực sự về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Người ta hiểu vì sao chỉ có thể tìm lại được sự tròn đầy nầy trong ơn gọi hôn nhân trong Chúa Thánh Thần. Hành vi cơ bản cấu thành hôn nhân nằm trong sự trao hiến cho nhau, sự việc dâng hiến thân xác mình như một quà tặng cho bạn phối ngẫu của mình. Hôn nhân, bởi vì nó là bí tích trao ban, tự bản chất là một bí tích mở ra cho Chúa Thánh Thần hành động, vì Chúa Thánh Thần chính là Sự Trao Ban đích thực, hoặc còn hơn thế, là Sự Trao Ban cho nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngừoi là sự hiện diện quan trọng của Thần Khí làm cho hôn nhân trở thành một Bí tích không chỉ được cử hành, mà còn được sống.

Dành má»™t chá»— cho Chúa Kitô trong đời sống lứa đôi của mình là bí quyết để tiến đến những sá»± huy hoàng của hôn nhân Kitô giáo. Trên thá»±c tế chính từ Chúa Kitô mà Chúa Thánh Thần đến và canh tân mọi sá»±. Má»™t cuốn sách của ĐGM Fulton Sheen, rất nổi tiếng trong thập niên 1950, dạy Ä‘iều ấy ngay ở tá»±a đề cuốn sách nầy:  «Ba người để kết hôn ».

Đừng sợ hãi khi đề nghị với một số cặp các vợ chồng Kitô hữu tương lai được chuẩn bị kỹ càng, một mục tiêu được nâng cao: cùng nhau cầu nguyện chung tối hôm thành hôn, như Tôbia và Sara đã làm, để đem cho Thiên Chúa Cha niềm vui được nhìn thấy lần nữa được kế hoạch nguyên thủy của Người thực hiện, nhờ Chúa Kitô, khi Adong và Evà còn trần truồng trước mặt nhau và cả hai trước mặt Thiên Chúa mà không cảm thấy xấu hổ.

Tôi xin kết thúc bằng một lời rút ra từ cuốn «Chiếc giày bằng sa-tanh » của Claudel. Đó là một mẩu đối thoại giữa vai chính nữ, giữa cơn sợ hãi và ước ao đi đến tình yêu và thiên thần hộ thủ của cô:

· Dona Prouhèze: Sao chứ! Như vậy là được phép phải không? Tình yêu của những tạo vật trao cho nhau, đúng thật là Thiên Chúa không ghen tỵ chứ?

· Thiên Thần hộ thủ: Làm thế nào mà Thiên Chúa lại ghen tỵ với điều Người đã làm chứ?

· Dona Prougèze: Người đàn ông nằm trong tay người đàn bà sẽ quên Thiên Chúa

· Thiên thần hộ thủ: Ở với Người là quên Người sao? Hơn nữa liên kết với mầu nhiệm cuộc tạo dựng của Thiên Chúa là ở với Người.



BTGH chuyển ngữ



  In bài này    Lưu dạng file    Gửi bài này qua Email


Những bài khác:



Gửi bài
Lên đầu trang
  Tin - bài mới nhất 
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Văn phòng TGM: Thông báo về Thánh lễ cao điểm Năm Thánh kỷ niệm 100 năm thành lập Tuần Chầu Lượt
Đức Giáo hoàng Phanxicô gặp Giáo chủ Giáo hội Chính thống Czech và Slovak
Giáo xứ Yên Đại: Khai mạc Tuần Chầu lượt trong Năm Thánh Thể Giáo Phận
Vòng loại Cuộc thi Tri thức Tôn giáo Cộng đoàn Vinh tại Hà Nội 2018: Cử hành và Sống Đức Tin
Chúa nhật Lễ Chúa Thăng Thiên, năm B: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Hội Dòng Chị Em Bác Ái Gioanna Antida Thouret: Thông báo tuyển sinh năm 2018
Giáo xứ Hòa Ninh: Khánh thành nhà thờ giáo họ Minh Lệ
Tòa Giám mục Giáo phận Vinh: Thông báo Lễ Truyền chức Phó tế cho các Đại Chủng sinh khóa XII
Hội Dòng Mến Thánh Giá Vinh: Thông báo Khóa học âm nhạc hè 2018
Thiên chức làm Mẹ của Đức Maria
Di dân Giáo phận Vinh tại Miền Nam: Bế mạc Giải Bóng đá Truyền thống Cúp Phục Sinh lần thứ VII
Thư Rao về việc truyền chức Phó tế cho Thầy G.B. Đoàn Văn Huy
Tuần Chầu lượt tại các giáo xứ Nghi Lộc, Làng Anh và Vĩnh Phước (Hà Tĩnh)
Thánh lễ Cao điểm Tuần Chầu giáo xứ Kẻ Mui: 14 tân tòng lãnh nhận các Bí Tích Khai Tâm

  Hỗ trợ Web GPVinh 

  Nghe Lời Chúa 


  5 phút suy niệm 


  Các Giờ Kinh Phụng Vụ 


  Vị Thánh trong ngày 


  Web Lam Hồng 


  Đăng nhập/Đ. ký 
Bí danh
Mật khẩu
Mã kiểm traMã kiểm tra
Lặp lại mã kiểm tra
Ghi nhớ

  Giáo Lý - Đức Tin 


  Bác ái xã hội - Caritas 


  Tài liệu mới 
  Danh sách các thầy khóa XII được truyền chức Phó tế
  ThÆ° Rao Truyền chức Phó tế khóa XII
  ThÆ° Rao Truyền chức Phó tế khóa 12
  HÆ°á»›ng dẫn Mục vụ Thánh nhạc
  "Sống Và Yêu Thật Lòng" / Lm. Micae – Phaolô Trần Minh Huy, PSS
  Tông Huấn Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu ThÆ°Æ¡ng) của Đức Phanxicô
  Yêu ThÆ°Æ¡ng là sứ mệnh của chúng ta - Để gia đình sống dồi dào
  Văn bản Đàng Thánh Giá do ĐTC chủ sá»± ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 03/04/2015
  Æ n Gọi Và Sứ Mạng Của Gia Đình Trong Giáo Há»™i Và Trong Thế Giá»›i Ngày Nay
  ÄÃ ng Thánh Giá thứ Sáu Tuần Thánh năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ - 2015
Xem tiếp...

  Radio Công giáo 



Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net