GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


_READMORE
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 23
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 023
 Lượt tr.cập 055585562
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Diễn đàn Giáo Phận Vinh 29.04.2024
DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH :: Xem chủ đề - Câu Lạc Bá»™

 Chào mừng bạn đến với diễn đàn GIAOPHANVINH.NET


 Xem bài chưa có ai trả lời 
Đăng ký làm thành viênĐăng ký làm thành viên 

gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Truyện, ký, tiểu thuyết, Ä‘oản khúc... Chuyển đến trang Trang trước  1, 2, 3, 4, 5  Trang kế
 Bạn đang theo dõi chủ đề ở chuyên mục : Truyện, ký, tiểu thuyết, Ä‘oản khúc... 
Người đăng Thông điệp
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 31.05.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

GIẢ THIẾT THIÊN CHÚA

(The God Hypothesis)


Chíến thuật lý luận của các người vô thần mới là, trước tiên, quyến rủ người đọc vào sự đồng ý ngấm ngầm rằng đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa là một “giả thiết,” một điều hoạt động với các người tin theo cùng phương cách như một giả thiết khoa học hoạt động với các nhà khoa học (Dawkins 31-73). Trong khoa học, một giả thiết là một khung trừu tượng đem lại tính có thể hiểu cho một nhóm các quan sát lặp lại được của thí nghiệm. Nhưng Thiên Chúa có phải là một giả thiết không? Không thoát được sự chú ý của Dawkins rằng những người đề xuất thiết kế thông minh (TKTM) (intelligent design-ID) nhờ vào một cái gì đó giống như giả thiết về Thiên Chúa để giải thích sự phức tạp sinh học. Những người ủng hộ TKTM, tất cả đều hữu thần, nghĩ về thiết kế thông minh hoạt động như là một giả thiết khoa học—hoặc chính xác hơn, một lý thuyết khoa học (scientific theory)—đối nghịch với lý thuyết tiến hóa (evolutionary theory). Cho dẫu không phải tất cả những người đề xuất TKTM đều minh nhiên đồng hóa người thiết kế thông minh với Thiên Chúa, đã rõ ràng rằng họ nhờ vào một tác nhân siêu nhiên (supernatural agency) như thể nó là một giải thích khoa học. Không đáng ngạc nhiên, Dawkins nắm lấy điều không chính đáng về thần học đó như là bảo chứng cho giả định của chính ông rằng ý niệm về Thiên Chúa hoạt động, hay phải hoạt động, với tất cả các người hữu thần như là một giả thiết khoa học đối nghịch với giả thiết sinh học tiến hóa. Với Dawkins, trở thành người thiết kế siêu nhiên là thiết yếu cho chính định nghĩa về Thiên Chúa (31), vì thế ông háo hức đi theo với TKTM trong việc đặt để Thiên Chúa vào vai trò của một giả thiết.

Sự thực là rằng ý niệm về Thiên Chúa hoạt động như là bất cứ điều gì ngoại trừ như là một giả thiết khoa học cho hầu hết các người tin và các nhà thần học, nhưng điều này không ngăn cản được Dawkins và các đồng sự của ông. Quả thực, một yếu tố chìa khóa của vụ án các người vô thần mới chống Thiên Chúa là giả định rằng chủ thuyết tạo dựng và TKTM đại điện cho quan điểm trí thức cao cấp và cốt lõi trọng tâm của các truyền thống hữu thần. Hầu hết các nhà thần học đương thời từ khước chủ thuyết tạo dựng và TKTM vì các lý do thần học, nhưng các người vô thần mới đã quyết định, gần như bằng mệnh lệnh quyền lực (decree), rằng thần học không được tính đến và phải bị đưa ra ngoài các cuộc thảo luận của họ về Thiên Chúa. Đã tránh mọi đụng chạm cụ thể với thần học, phần thứ hai của lập luận của các người vô thần mới thì đơn giản: chỉ ra rằng không có chứng cứ nào ủng hộ giả thiết về Thiên Chúa.

Một điệp khúc hoài mãi của các người vô thần mới là như thế này: vấn đề căn bản về đức tin là vì nó không dựa trên “chứng cứ,” hoặc vào trường hợp khá nhất, chứng cứ không đầy đủ, và do đó phải bị loại bỏ dưới mọi hình thái. Ngược lại, khoa học có thể chỉ đến vô số quan sát có thể lặp lại ủng hộ các giả thiết của chính nó, và trong khi một nhà khoa học đúng nghĩa sẵn sàng từ bỏ hoặc điều chỉnh một giả thiết nếu các thử nghiệm đòi buộc phải làm như vậy, người tin bám víu vào giả thiết Thiên Chúa của họ bất kể chẳng có một chứng cứ nào hiện hữu. Cuối cùng, như Hitchens hân hoan nhắc nhở chúng ta (68-71), khoa học đã chứng tỏ giả thiết Thiên Chúa là một vi phạm vào dao cạo của Occam (Occam’s razor). Dao cạo Occam là một tiên đề (axiom) của khoa học nói rằng quả thực chúng ta không bao giờ nên dựa vào một giải thích phức tạp khi chỉ một giải thích đơn giản đã đủ. Hậu quả là, nếu khoa học có thể giải thích sự phức tạp sinh học bằng một phương cách đơn giản, thế thì ích lợi gì với giáo điều (phức tạp hơn) về tạo dựng siêu nhiên? Giả thiết Thiên Chúa là một nỗ lực giả khoa học (pseudoscientific) để làm những gì khoa học ngày nay có thể tự nó làm hay hơn. Từ đó, mọi người có lý trí phải loại bỏ giả định Thiên Chúa và chấp nhận khoa học là phương cách chắc chắn nhất để định hướng tư duy và cuộc sống của họ. (Tôi thảo luận việc sử dụng sai của Hitchens, cũng như Dawkins, dao cạo Occam trong chương 7).

Chiến thuật lập luận hai mang (two-pronged) của Dawkins là nhằm đưa ra một cái tát trí thức quyết định cho chủ thuyết hữu thần, và từ đó thiết lập chủ thuyết vô thần như là “gần như chắc chắn” (almost certain) (113-59). Tuy nhiên, Dawkins và các người vô thần mới khác đã làm mọi sự thành hoàn toàn quá sức đơn giản cho chính họ. Thoạt kỳ thủy, cũng tiêu biểu như trong tất cả các bài viết của họ, nhằm hạ bệ Thiên Chúa, họ trước hết co rút ý niệm siêu nhiên thành ý niệm của người ban hành luật (lawgiver), kỹ sư vũ trụ (cosmic engineer), hoặc người thiết kế thông minh (Dawkins 31). Điều này lập ra các giai đoạn để cho mọi người thấy tiến hóa theo Darwin hiển nhiên chứng minh rằng thiên nhiên không được thiết kế thông minh chút nào hết, và rằng giả thiết Thiên Chúa cuối cùng đã bị đánh bại đến tận cùng. Dawkins và các người theo chủ thuyết thiên nhiên tiến hóa khác đã chịu ấn tượng của lập luận này nhiều cho đến nổi họ tự trưng bày ra như các người bề trên thông tuệ của mọi người tin. Lúc này có lúc họ thậm chí nói đến chính họ như là những người “sáng sủa” (brights), qua đó tự phân biệt họ với những người đối lập tôn giáo không được sáng sủa. Thế nhưng chẳng có gì là sáng sủa lắm lắm khi tranh cãi về chủ thuyết tạo dựng và TKTM trong khi tránh mọi dấn thân trực tiếp với thần học. Các người vô thần mới chẳng đề cập gì tới, nói ví dụ, nhà thần học Tin lành quan trọng nhất của thế kỷ vừa qua, Karl Barth, người, cùng với các nhà thần học khác gần đây nhất, đã lý luận có tác dụng rằng bất cứ Thiên Chúa nào hoạt động như là một “giả thiết” đều không xứng đáng được bào chữa dù với cách nào. Các người vô thần mới thực sự đã làm ơn cho thần học bằng cách hạ bệ giả thiết Thiên Chúa.

Tại sao thế? Bởi vì nghĩ đến Thiên Chúa như là một giả thiết giảm thiểu huyền nhiệm siêu nhiên vô tận thành một nguyên ủy khoa học hữu tận, và thờ phượng bất cứ cái hữu tận nào đều là tin quấy thờ quá (idolatrous). Khái niệm về giả thiết Thiên Chúa co rút Thiên Chúa xuống còn kích cỡ một mắt xích trong một dây nhân quả, và việc giảm thiểu này đưa đến một chủ thuyết vô thần cấp tiến nhiều hơn ba nhà cung cấp sự không thần không chúa của chúng ta có thể tự họ pha chế ra được. Tác phẩm thực sự của chủ thuyết vô thần đã được hoàn thành vào thời đại ban đầu bởi các nhà tư duy Kitô giáo vụng về đã giảm thiểu Thiên Chúa xuống thành nguyên ủy hữu hiệu của một hệ thống vật chất. Như thế các người vô thần mới, hạng nhẹ, đã đến hiện trường mưu sát Thiên Chúa quá sức chậm trễ. Trên mỗi trang của hiến chương họ, chúng ta thấy họ đang đấm thùm thụp vào một xác chết.

Chỉ trích đức tin hữu thần mà không đoái hoài đến tác phẩm các nhà thần học như Karl Barth hoặc Paul Tillich (và nhiều người khác) cũng giống như cố gắng giải thích thế giới tự nhiên trong khi bỏ qua không đá động đến khoa học hiện đại. Trong các chỉ trích của họ về giả thiết Thiên Chúa, các người vô thần mới chứng tỏ họ chi có, nếu họ quả có, sự quen thuộc nông cạn nhất với bất cứ nhà thần học chính yếu hay truyền thống thần học nào. Họ cũng không cảm thấy một chút xấu hổ nào với sự kiện họ đã chọn lật đổ một vị thần chúa mà sự hiện hữu hầu hết các nhà thần học và đại đa số tín hữu Kitô, Hồi, và Do thái giáo không một chút hứng thú nào trong việc bào chữa.

Dawkins có thể trả lời ông bác bỏ mỗi một và tất cả nhận thức về Thiên Chúa (36), nhưng rõ ràng ông nghĩ về Thiên Chúa trong một phương cách cực kỳ hạn chế, quả thực vặn vẹo, khi ông định nghĩa “Thiên Chúa” như là một người thiết kế siêu nhiên có tính giả thiết. Hình ảnh thoáng qua của Thiên Chúa mà ông nhấp nháy trong Ảo giác về Thiên Chúa là một tranh biếm họa đã từ lâu xúc phạm đến thần học. Hình như nó đến hoàn toàn từ việc thăm viếng các trại và trang Web của những người tạo dựng và người bảo vệ TKTM. Hơn nữa, khi nhấn mạnh đến giả thiết Thiên Chúa lệ thuộc vào việc xác nhận hay phủ nhận chỉ bằng phương pháp khoa học, Dawkins đã lập nên một vấn đề chẳng có một chút liên hệ gì đến hoặc khoa học hoặc thần học. Bất cứ thần chúa nào có thể bị quyết định bởi một cái gì rẻ mạt như là “chứng cứ” theo nhận thức thô lậu của Harris và Dawkins về từ này không bao giờ chỉ đạo được sự thờ phượng của bất cứ ai. Vậy bằng cách tránh hoàn toàn thần học, chủ thuyết vô thần mới lại một lần nữa tự nó cho thấy là không liên quan ngoại trừ với những ai chia sẻ nhận thức héo úa của nó về Thiên Chúa.
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 03.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

THIÊN CHÚA Ở ĐÂU?


Nếu đức tin vào Thiên Chúa là chân thực, thế thì, như các người vô thần mới chỉ ra cách đúng đắn, phải có một cái gì đó trên thực tế phù hợp với ý niệm về Thiên Chúa. Nhưng, theo Dawkins, Harris, và Hitchens, chẳng có một phù hợp nào như vậy có thể chứng tỏ được một cách thực nghiệm để hiện hữu. Vì đức tin làm trỗi sinh đủ mọi thể loại tưởng tượng, làm sao chúng ta biết được ý niệm về Thiên Chúa không chỉ là một niềm tin cũng hoang dại và xa rời thực tế như niềm tin vào bà tiên răng (tooth fairy )? Như Harris nhấn mạnh, nhằm chấp nhận như là sự thực, phải có một phương cách xác nhận thực tại về Thiên Chúa độc lập với đức tin (50-79). Cho rằng khoa học đã không thể tìm ra Thiên Chúa, và triển vọng có bao giờ nó sẽ tìm được thì không sáng sủa, chủ thuyết vô thần là quan điểm duy nhất còn lại.

Nhưng nếu đức tin vào Thiên Chúa đòi buộc sự xác nhận độc lập của khoa học, vậy thì đức tin khổng lồ mà các người vô thần mới của chúng ta đặt vào chính khoa học thì thế nào? Chính xác, những gì các thí nghiệm khoa học độc lập, chúng ta có thể hỏi, có thể cung cấp “chứng cứ” cho giả thiết rằng mọi nhận thức đích thực phải dựa trên mô hình khảo sát khoa học không? Nếu đức tin đòi buộc sự xác nhận độc lập, phương pháp độc lập (không đức tin) nào để minh chứng rằng chính đức tin của họ vào lãnh vực nhận thức bao gồm mọi thức (all-encompassing) của khoa học là hợp lý? Nếu khoa học tự nó là phương cách duy nhất để cung cấp cách đánh giá độc lập như vậy, thì sự truy lùng tính giá trị chính đáng chỉ chuyển động tiến trình minh chứng theo hướng một thoái bộ vô tận.

Hơn nữa, có nhiều đường lối (channels) khác hơn là khoa học qua đó chúng ta tất cả đều kinh qua, nhận thức, và biết thế giới. Ví dụ, trong tri thức giữa người với người của tôi, chứng cứ rằng một ai đó yêu tôi thật khó mà đo lường, nhưng nó có thể rất đích thực không gì hơn được. Phương cách duy nhất tôi có thể gặp gỡ chiều sâu chủ thể của người khác là từ bỏ phương pháp làm thành khách thể của khoa học. Xử lý tha nhân và tính chủ thể của người khác như thể ông bà ấy chỉ là một đối thể (object) trong thiên nhiên là sai lầm vừa về ý thức vừa về luân lý. Để tính toán thỏa đáng về chứng cứ của chiều sâu chủ thể mà tôi gặp gỡ trước mặt người khác, tôi cần chấp nhận một tư thế của sự xúc phạm. Gặp gỡ chiều sâu cá nhân của người khác thách thức tôi phải để ra ngoài phương pháp kiểm soát, làm chủ, biến thành khách thể của khoa học tự nhiên. Cũng thế, trong việc tôi tiếp xúc với tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao hoặc với vẻ đẹp thiên nhiên, “chứng cứ” thẩm mỹ là rằng tôi sẽ mất nó hoàn toàn trừ phi tôi từ bỏ tư thế làm thành khách thể, phân tích và cho phép tự tôi thả lỏng theo nó.

Có phải các người vô thần mới của chúng ta nghiêm chỉnh tin , do đó, rằng nếu một Thiên Chúa có tính người của vẻ đẹp vô tận và tình yêu vô biên thực sự hiện hữu, “chứng cứ” cho sự hiện hữu của Thiên Chúa đó có thể thu thập được cách rẻ mạt như là chứng cứ cho một giả thiết khoa học sao? Thậm chí trong kinh nghiệm con người thường tình của chúng ta, chính các chủ thể riêng tư mà chúng ta quan tâm nhiều hơn cả, và không một số lượng chuyên môn khoa học nào có thể cho chúng ta biết họ thực sự là ai. Có lẽ nào lại khác đi với Thiên Chúa, mà người tin không kinh qua như là một “Nó” (It) thông thường mà như là một “Đấng” (Thou) tối cao? Nếu Thiên Chúa hiện hữu, lúc đó kinh nghiệm giữa người với người, không phải khách thể vô tính của khoa học, sẽ là thiết yếu cho nhận thức về Thiên Chúa đó. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, tình yêu thương của một người khác quan trọng với chúng ta hơn bất cứ thứ gì khác, nhưng thu thập “chứng cứ” về tình yêu đó đòi buộc một bước nhảy của tín nhiệm về phần chúng ta, một đánh cá làm cho chúng ta thành dễ thương tổn với thể loại hiện diện đặc biệt của họ. Tình yêu của người kia đó, hơn nữa, bắt giữ chúng ta theo một phương cách mà chúng ta không thể nối kết chút nào nữa với nó nếu chúng ta cố gắng kiểm soát nó cách trí tuệ. Lần nữa, có thể nào khác đi trong trường hợp của bất cứ việc gặp gỡ nào có thể quan niệm được về con người trần thế với tình yêu vô hạn sao?

Vì Thiên Chúa là quan yếu hơn bất kể thứ gì khác cho những người sùng mộ, làm sao họ có thể biết Thiên Chúa mà không gây nguy cho chính họ, hoặc mà không trải qua một thay đổi riêng tư sâu xa tương tự như, nhưng xúc động mạnh hơn, những gì phải có để biết tình yêu thương của một hiện thân con người khác? Tất cả mọi truyền thống đức tin quan trọng đều nhấn mạnh rằng việc gặp gỡ thực tại tối cao không thể xẩy ra mà không có một sự chuyển hóa như vậy. Đời sống của đức tin là một đời sống trong đó “không có nhận biết mà không từ bỏ” (there is no knowing without going): “trừ phi anh chị em thay đổi và trở thành như trẻ em, anh chị em sẽ không bao giờ đi vào vương quốc của thiên đàng” (Mt. 18, 3). Thậm chí để hiểu thế giới theo phương cách khoa học, làm thành khách thể cũng đòi buộc một thể loại rất đặc biệt về huấn luyện, khổ tu, và chuyển hóa tâm linh. Vậy nếu vũ trụ được bao phủ bởi một Tình Yêu vô tận, liệu sự gặp gỡ với thực tại tối cao đó có đòi buộc điều gì ít hơn là một tư thế tiếp nhận và sẵn sàng đầu hàng sự chấp nhận đó không? Làm sao các người vô thần mới nghĩ họ có thể quyết định câu hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa mà không cởi mở chính họ ra cho sự chuyển hóa cá nhân thiết yếu với ý nghĩa của đức tin về việc bị nắm bắt bởi một tình yêu thương vô biên? Rõ ràng các người vô thần mới đang tìm kiếm một lối tắt và một tiếp cận trực tiếp, khách thể hóa với những gì người tin xem như không thể đến được tách rời khỏi việc đầu hàng với đức tin. Không tìm kiếm được Thiên Chúa hay bất cứ “chứng cứ” nào về Thiên Chúa bằng phương cách khoa học hoặc các phương cách thông thường của nhận thức, họ giờ đây chắc chắn rằng Thiên Chúa không hiện hữu.
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 03.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

NHU CẦU ĐỨC TIN

(The Need for Faith)


Vào một điểm nào đó trong việc định giá trị của mọi tuyên bố hay giả thiết về chân lý, một bước nhảy của đức tin là thành tố không thể tránh thoát. Tại nền tảng của mọi sự tìm kiếm của con người về nhận thức và chân lý, kể cả tìm kiếm khoa học, hiện diện một thành phần không thể hủy diệt được của tín nhiệm (trust). Nếu quí vị thấy chính quí vị đang nghi ngờ những gì tôi vừa nói, chính chỉ vì, vào ngay lúc này, quí vị tín nhiệm vào tâm trí của chính quí vị đủ để diễn đạt mối quan tâm đến xác nhận của tôi. Quí vị không thể tránh tín nhiệm vào khả năng trí tuệ của quí vị, thậm chí khi quí vị đang nghi nan. Hơn nữa, quí vị nêu lên các câu hỏi quan yếu chỉ vì quí vị tin rằng chân lý đáng được tìm kiếm. Đức tin theo ý nghĩa này, và không phải theo ý nghĩa của tưởng tượng hoang dại và mơ tưởng, nằm ở cội nguồn của tôn giáo đích thực—và khoa học.

Tín nhiệm là một từ khác theo đó Kinh thánh Kitô giáo gọi là đức tin, và chỉ một ít tư duy cần đến để nhận ra rằng mọi tìm hiểu của mọi hiện thân con người trỗi sinh từ sự mờ mịt của một thể loại nào đó của đức tin, hay tín nhiệm, mà không có chứng cứ khách quan. Đa số chúng ta đơn giản tin rằng tìm kiếm chân lý là xứng đáng. Chúng ta không thể chứng minh điều đó vì thậm chí nỗ lực để làm thế cũng đã giả định sự tín nhiệm đó. Sự tín nhiệm cơ bản đó, lúc đó, phóng đi và thúc đẩy mọi tìm kiếm của con người chân thực, cả việc tìm kiếm khoa học cũng thế. Nhưng vấn đề của tôi là rằng sự tín nhiệm cơ bản đó không phải là một kết quả của bất cứ chế độ thực nghiệm khoa học nào. Tín nhiệm rằng thế giới tự nhiên là có thể hiểu được và rằng chân lý đáng được tìm kiếm là thiết yếu cho khoa học trước tiên bước được bước đầu. Chúng ta tự nhiên tín nhiệm rằng các hành trình khai phá của chúng ta sẽ được chào đón bởi một lãnh vực luôn bành trướng của tính có thể hiểu được và một chiều sâu vô tận của chân lý. Sự tín nhiệm đó cũng nằm ở trung tâm của đức tin tôn giáo đích thực. Trong khía cạnh đó, ít nữa, khoa học và đức tin là đồng minh, không phải địch thù. Một lòng ưa chuộng bí mật và không đè nén được sự tín nhiệm bùng lên tự sâu thẳm bên trong chúng ta, thúc đẩy cả khoa học cả tôn giáo tìm kiếm nhận thức sâu sắc hơn. Dĩ nhiên, sự thúc đẩy để tín nhiệm có lúc bị chi phối cách nào đó dẫn đến lầm lạc không chỉ trong tôn giáo mà cả trong lãnh vực khoa học. Nhưng, trước tiên, chỉ có một niềm tin tưởng ban sơ có thể dẫn tâm trí con người nhận lấy cuộc mạo hiểm khai phá vũ trụ—cũng như huyền nhiệm vô tận.

Tôi đang nhấn mạnh đến xu hướng không xóa bỏ được của chúng ta về tín nhiệm vì hai lý do. Thứ nhất, nó cho thấy rõ ràng nỗ lực của chủ thuyết vô thần mới để tẩy sạch đức tin khỏi ý thức con người là lố bịch và đi đến thất bại. Ví dụ, Harris đề nghị rằng việc gạt bỏ mọi đức tin là thiết yếu nếu lý trí muốn ngự trị tối cao. Nhưng ông không thể loại bỏ mọi vết tích của đức tin thậm chí khỏi chính tâm trí ông. Khi ông đảm trách sự thúc đẩy nhiệt tình để lột bỏ đức tin khỏi thế giới, ông trước hết phải tin rằng thế giới đích thực là hữu lý, rằng chân lý là điều gì phải được trân quí và tôn trọng, và rằng chính tâm trí ông thuộc về sự chính trực như thế có thể nắm bắt được ý nghĩa và đưa ra các tuyên bố giá trị về chân lý. Thành tố tín nhiệm này thường ngấm ngầm và hiếm khi minh nhiên, nhưng nó là một hiện diện uy quyền không hơn không kém. Các người vô thần chuyên gia của chúng ta đã hiển nhiên thất bại trong việc chú ý đến nó thậm chí khi nó thúc đẩy chính hoạt động nhận thức của họ.

Thứ hai, bằng nhận diện sự tín nhiệm triệt để nêu rõ đời sống nhận thức của mọi người tìm kiếm và mọi người nhận biết, chúng ta có thể định ra vị trí đích thực của thần học trong tương quan với khoa học. Thần học không phải lả lời giải đáp cho các câu hỏi khoa học, như các người vô thần mới muốn nó là thế—vì điều này có thể làm cho việc họ phá hủy thần học thành một công việc dễ dàng. Đúng hơn, thần học đáp ứng với câu hỏi liệu sự tín nhiệm tự phát nêu rõ mọi hành trình tìm hiểu, kể cả khoa học, là biện minh được. Khoa học không thể cung cấp sự biện minh đó vì nó đã giả định rằng tim kiếm nhận thức và chân lý là xứng đáng. Các người vô thần mới cũng không thể cung cấp sự biện giải cần thiết về sự tính nhiệm của họ vì họ đã quá đơn giản cho rằng thực tế là hiểu biết được và rằng chân lý quả đáng tìm kiếm.

Vậy câu hỏi quan trọng thực sự vẫn không có câu trả lời bởi khoa học và các người vô thần mới. Harris đặt tín nhiệm to lớn vào chính quyền lực lý trí của ông, như trích dẫn bên lề chương sách cho thấy. Ông thực hiện một hành động ngấm ngầm về đức tin trong chính sự thông tuệ phê phán của ông. Nhưng ông không bao giờ cung cấp cho chúng ta lý do đầy đủ về tại sao ông phải tín nhiệm vào tâm trí ông để dẫn ông và chúng ta đến chân lý. Nói cách khác, ông không bao giời biện giải nổi vênh vang nhận thức bao la của ông. Ông đơn giản mù quáng tin tưởng vào khả năng siêu việt của chính tâm trí ông để tìm chân lý với sự dễ dàng và chắc chắn mà người bị dẫn dắt sai lầm bởi đức tin tôn giáo không sở hữu được. Nhằm trở thành một người hướng dẫn đáng cho chúng ta còn lại tín nhiệm, ông phải tín nhiệm rằng tâm trí ông có thể làm cho chúng ta tiếp xúc được với thế giới thực sự. Nhưng tại sao ông lại phải tín nhiệm vào tâm trí ông, cách riêng với quan điểm về thế giới tự nhiên từ đó tâm trí của ông và của chúng ta được bảo là đã tiến hóa?

Chính hệ thống niềm tin của các người vô thần mới, chủ thuyết thiên nhiên khoa học, theo logic xói mòn niềm vững tin nhận thức, thậm chí nếu nó không cần thiết phải làm thế theo tâm lý. Vì tâm trí của chúng ta được bảo là đã tiến hóa dần dần từ một tình trạng không tâm trí của thiên nhiên, tại sao chúng ta phải tín nhiệm vào cũng các tâm trí đó để đưa chúng ta tiếp xúc với thực tế? Ở đâu và làm sao chúng có được một khả năng tinh tế như vậy, cách riêng cho rằng với sự thấp kém của nguồn gốc của chúng trong thiên nhiên? Đúng, khoa học tiến hóa có một giải thích đáng tin cậy về tại sao tâm trí chúng ta có thể thích ứng, nhưng điều đó không đủ để biện minh sự tín nhiệm tự phát chúng ta có trong tâm trí để đưa chúng ta tiếp xúc với thực tế hay chân lý. Thực ra, chúng ta phải thay vào đó bằng không tín nhiệm (distrust) hành động nhận thức của chúng ta nếu tiến hóa là yếu tố nhân quả cuối cùng liên quan đến tạo thành tâm trí. Vì tiến hóa tự nó được hiểu đến như là một tiến trình không tâm trí (a mindless process), tại sao các người thiên nhiên khoa học tín nhiệm nó là hay là đẹp cho một điều gì ngoại trừ thích ứng?

Nhằm biện giải sự vững tin nhận thức của chúng ta, một cái gì đó thêm vào với tiến hóa phải xẩy ra trong lúc trỗi sinh dần dần của tâm trí trong lịch sử thiên nhiên. Vì nếu các tâm trí chúng ta chẳng là gì cả ngoại trừ là kết quả bất ngờ của một tiến trình tiến hóa không tâm trí, tại sao chúng ta lại phải tín nhiệm chúng? Một tường thuật Darwin về khả năng phê phán của tâm trí—sự thực đến mức tường thuật đó có thể được—không đủ nền tảng cho chúng ta đặt niềm vững tin vào quyền lực nhận thức của chúng ta. Chính Darwin đồng ý thế. Viết cho một trong các bạn của ông, ông đau buồn liệu lý thuyết về sự tuyển chọn tự nhiên, nếu chúng ta chấp nhận nó nghiêm chỉnh và nhất quán, có thể không xói mòn lòng tín nhiệm thực sự mà chúng ta có trong khả năng của tâm trí chúng ta để hiểu và biết thực tế hay không. “Với tôi, sự nghi ngờ khủng khiếp luôn luôn nổi lên,” ông thú nhận, “cho dẫu niềm tin về tâm trí con người, tâm trí được phát triển từ tâm trí của súc vật thấp kém hơn, có một chút giá trị nào hay một chút đáng tín nhiệm. Có ai có thể tín nhiệm vào niềm tin của tâm trí một con khỉ, nếu có niềm tin nào trong một tâm trí như vậy?”

Vậy sinh học tiến hóa, tòa kháng án cuối cùng của người theo chủ thuyết thiên nhiên khoa học, thì không đủ. Tâm trí phải là những gì hơn là một máy móc thích ứng nhằm xứng đáng với sự tín nhiệm của chúng ta. Khoa sinh học, nói cho cùng, đã chứng minh rằng nhiều thích ứng trong cuộc sống đơn thuần là những đánh lừa. Hoặc, như một loại suy đoán tiến hóa khác có thể tuyên bố, sự trỗi sinh tâm trí con người trong tiến hóa là kết quả của một loạt chuyện tình cờ. Tường trình này cũng không đủ để gợi ra niềm tin tưởng. Hơn nữa, khoa học xã hội đã cho thấy xu hướng thay đổi của văn hóa và xã hội không đầy đủ, ít nữa tự chúng, để đánh giá niềm tin tưởng chúng ta có trong tâm trí chúng ta để hiểu và biết những gì là đúng và những gì không. Theo cách diễn dịch thiên nhiên thuần túy, không có đủ lý do để tín nhiệm vào tâm trí chúng ta. Tôi có mọi lý do để tin rằng tâm trí chúng ta cũng tiến hóa nữa, và tôi hoàn toàn chấp nhận sinh học tiến hóa. Nhưng tôi cũng tín nhiệm vào tâm trí của tôi, và khoa học tiến hóa mà thôi không thể biện giải cho sự tín nhiệm đó.
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 03.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

THẦN HỌC VÀ SỰ TRUY TẦM CHÂN LÝ

(Theology and the Quest for Truth)


Thần học có thể cung cấp một câu trả lời rất hay cho lý do tại sao chúng ta có thể tín nhiệm vào tâm trí chúng ta. Chúng ta có thể tín nhiệm vào chúng vì, trước mọi tiến trình của tìm hiểu lý trí hay thực nghiệm, mỗi người trong chúng ta, đơn giản với tư cách của hiện thân (being) hay hiện hữu (existing), đã được bao phủ bởi Hiện thân vô tận (infinite Being), Cứu cánh (Meaning), Chân lý (Truth), Sự Thiện (Goodness), và Vẻ Đẹp (Beauty). Chúng ta tỉnh giấc chi một cách chậm chạp và tối tăm trong môi trường sâu thẳm và giải thoát không đo lường được đó và chìm đắm trong đó mọi ngày của đời chúng ta. Chúng ta không thể tập chú đến nó, và chúng ta có thể thậm chí không chú ý đến nó một chút nào vì, như cá trong một dòng sông, chúng ta chìm ngập sâu thực sâu trong đó. Nhưng chúng ta có thể tín nhiệm vào khả năng của chúng ta tìm kiếm được cứu cánh, chân lý, sự thiện, và vẻ đẹp bởi vì các điều đó đã vẫy gọi và bắt đầu đưa chúng ta đi xa. Đức tin, nói cho cùng, là sự tán đồng trang trọng và sôi động lời mời gọi nghiêm trọng này.

Thế thì, làm sao chúng ta có thể biện minh cho lòng tin tưởng nhận thức của chúng ta? Không phải bằng cách nhìn lại một cách khoa học những gì tâm trí của chúng ta từ đó đã tiến hóa ra, điều đó có thể giúp thông tin, nhưng chỉ bằng cách nhìn về đàng trước hướng đến cứu cánh và chân lý vô tận hiện ra mờ nhạt khó bắt giữ ở chân trời. Chỉ đơn giản bằng cách vươn tới sự tràn đầy của hiện thân, chân lý, sự thiện, và vẻ đẹp, chúng ta đã nắm bắt được. Đó là nền tảng chân thực của lòng tin tưởng nhận thức của chúng ta, và đức tin và tín nhiệm cho phép chúng ta trước tiên được cuốn đến chân trời đó. Khi chúng ta giao phó chúng ta cho lời mời gọi của hiện thân và chân lý, tâm trí chúng ta đã được làm cho cao quí bởi sự tuyệt hảo của mục đích mà các điều đó chuyển động đến. Khi tâm trí chúng ta được cuốn hút đến chân lý, các tâm trí đó đã cùng chia sẻ những gì mà chúng đói khát. Đó là những gì cho tâm trí chúng ta niềm vững tin cần thiết để tìm kiếm chân lý.

Sự tín nhiệm không chối bỏ được tăng sức cho việc tìm kiếm nhận thức và chân lý không bày tỏ ra cho chúng ta trong lãnh vực ánh sáng hàng ngày của đối thể mà các nhà khoa học có thể tập chú vào được. Sự tín nhiệm này trỗi sinh từ các ngóc ngách sâu thẳm và dấu kín nhất của ý thức chúng ta, ở một tầm mức sâu thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể đem vào trong sự tập chú rõ ràng vì chính hành động tập chú đó không thể xẩy ra mà không có sự tín nhiệm đó. Nhưng thậm chí nếu chúng ta không thể nắm bắt cứu cánh và chân lý trong một phương cách tuyệt đối và tận cùng, chúng ta có thể cho phép chúng nắm bắt chúng ta. Trong khi đầu hàng với cứu cánh và chân lý, chúng ta đang thực hiện một hành vi tôn giáo thiết yếu, hành vi mà thậm chí người vô thần cũng là một người dự phần không ý thức.

Đơn giản là khoa học không được trang bị để tìm ra hoặc loại bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là một giả thiết. Hơn nữa, thậm chí cho dẫu khoa học tự nó không thể lấy ra được bất cứ dấu vết rõ rệt nào về siêu nhiên, điều này không có nghĩa rằng Thiên Chúa hoàn toàn ở ngoài tầm của tâm trí. Ở tầm mức ngấm ngầm thông thường của nhận thức, cả người vô thần lẫn người hữu thần dự phần vào một đức tin chung. Cả hai tin rằng thực tế có thể hiểu được và chân lý đáng được tìm kiếm. Những gì thần học thêm vào là rằng sự hiện hữu của Thiên Chúa—nghĩa là, Hiện thân vô tận, Cứu cánh, Chân lý, Sự Thiện, và Vẻ Đẹp—cung cấp một biện giải đầy đủ cho niềm tin này, cũng như một câu trả lời câu hỏi tại sao vũ trụ lại có thể hiểu được như thế. Chẳng có gì khó coi trong việc bắt đầu tra vấn trí tuệ bằng cách tuyên xưng ngấm ngầm đức tin. Điều khó khăn, đúng là không hợp lý, là một nỗ lực che dấu đức tin này và, cùng lúc, từ khước tìm kiếm một biện giải thích đáng cho niềm tin đó.

Thần học, do đó, không cạnh tranh với khoa học bằng cách tìm kiếm chứng cứ để ủng hộ một giả thiết ti tiện về Thiên Chúa. Ngược lại, thần học—một từ tôi dùng theo nghĩa của một Barth hay Tillich—chống đối cách đúng đắn âm mưu của các người vô thần làm sụp đổ huyền nhiệm Thiên Chúa vào trong một loại các mệnh đề có thể cạnh tranh với, và rồi để thua cuộc, khoa học. Thần học đơn giản không phải chơi trò chơi lố bịch đó, cũng không phải hạ mình xuống tới tầm mức ngu xuẩn hàm ý trong các tranh biếm họa của các người vô thần. Dawkins và các đồng sự của ông tuyên bố rằng dẫn chiếu đến Thượng đế là không lý trí, nhưng những gì thực sự không lý trí là sự từ khước của họ trong việc tìm kiếm một lời giải thích cuối cùng cho lý do tại sao vũ trụ là có thể hiểu được, tại sao chân lý xứng đáng tìm kiếm, và tại sao chúng ta có thể tín nhiệm vào trí tuệ chúng ta khi chúng vươn tới nhận thức và chân lý sâu thẳm hơn.
Trần Hữu Thuần dịch
(Còn tiếp) Mời qúi độc giả đón xem TRANG VĂN số 07: Tại sao người ta tin?
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 15.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

CÂU LẠC BỘ
SÁNG TÁC THƠ – VĂN CÔNG GIÁO








01-6-2010










Kính thưa Quí Linh mục, Quí Tu sĩ nam nữ, Quí anh chị em Vườn Ô Liu và Quí độc giả kính mến.

Rung cảm khi nhắm nhìn một tạo vật để ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa và nhất là rung cảm khi nghiệm thấy tình yêu Thiên Chúa dành cho ta, càng làm cho ta ngất ngây, đắm chìm trong ân sủng của Ngài. Tri ân, cảm tạ, tôn vinh tình yêu Thiên Chúa là bổn phận cao cả của muôn loài tạo vật và là của mỗi chúng ta.
Trong tâm tình khiêm tốn tạ ơn Chúa và quyết tâm phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân bằng chính ngòi bút của mình. Chúng con luôn cất lời cao rao Tình Yêu Chúa:


“Chúc tụng Chúa đi hồn tôi hỡi
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.”

(TV 102)
Nguyện xin Chúa, Mẹ Maria, và Thánh cả Giuse chúc lành và tuôn đổ muôn Hồng Ân xuống cho TRANG VĂN 07 nhỏ bé này của chúng con.

Câu Lạc Bộ Sáng Tác Thơ – Văn Công Giáo
Đồng Xanh Thơ Sài – Gòn


Kính dâng lên Chúa, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse. Cùng kính gởi đến Qui Linh mục, Quí Tu sĩ nam nữ, Quí anh chị em Vườn Ô Liu và Quí độc giả một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả:

Luyện Được Con Mắt Thư Ba Lm. Trần Cao Tường
Tặng Vật Cho Cuộc Đi Tìm Lm. Nguyễn Tầm Thường
Công Cha … Nghĩa Mẹ Lm. Trần Đức Phương
Vô Tình Gieo Cỏ Dại Đỗ Thảo Anh
Em Có Nghe Mùa Thu Trần Ngọc Mười Hai
Chúc Thư Của Người Mẹ Hoàng Thị Đáo Tiệp
Riêng Một Khoảng Chiều Trầm Thiên Thu
Cái Mốc Thời Gian Bồ Câu Trắng
Đằng Sau Những Bức Rèm Vũ Thủy
Tại Sao Người Ta Tin? Trần Hữu Thuần


Kính thưa Quí Linh mục, Quí Tu sĩ nam nữ, Quí anh chị em Vườn Ô Liu và Quí độc giả kính mến.

Đồng Xanh Thơ Sài Gòn mỗi tháng phát hành 2 kỳ vào ngày 1 và 15 hằng tháng. Rất mong nhận được sự ưu ái quan tâm của quí vị, đóng góp ý kiến xây dựng cho Câu Lạc Bộ Sáng Tác Thơ – Văn Công Giáo mỗi ngày được phát triển tốt đẹp theo đường hướng của Giáo Hội, cùng đóng góp bài vở cho TRANG VĂN của chúng ta ngày càng thêm phong phú, các bài văn xuôi của quí vị mang tâm tình ngợi khen Thiên Chúa, diễn tả Tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống, sáng Tình Chúa, đậm tình người đều được Câu Lạc Bộ trân trọng đón nhận.

Bài vở xin quí vị gởi về trước ngày 12 để phát hành số ngày 15 và trước ngày 28 để phát hành số ngày 1 tháng tới. Các bài được chọn sẽ đăng trên trang Đồng Xanh Thơ Sài Gòn của website www.dunglac.org và www.tamlinhvaodoi.net và được gởi đến các điện chỉ mail của các tác giả và của các độc giả trong nước và hải ngoại.

Bài vở xin quí vị gởi về:

Hoàng Thi Ca.
Email: dxtsaigon@gmail.com
Chân thành cám ơn quí vị



LUYỆN ĐƯỢC CON MẮT THỨ BA

Lm. Trần Cao Tường


Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngát
Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la
Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt
Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà.

(thơ Nguyễn Khánh Hòa)


Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, là thần nhãn, thấy được những gì mà hai con mắt thịt vẫn nhìn mà không thấy.

Hồi còn là sinh viên, trong lớp tôi cũng có mấy anh bạn người Ấn. Có lần tôi đã trót dại đi nhạo báng mấy tên này vì cái trò ăn bằng tay có vẻ mất vệ sinh, nhất là khi ăn cà ri thì nhoe nhoét quá chừng. Tôi khơi mào bằng chuyện “bước tiến hóa tất yếu của lịch sử” văn minh loài người, rằng cứ xem cách ăn thì biết một sắc dân đã văn minh tới cỡ nào. Này nhé: ăn bằng cả mười ngón tay là thuộc thời còn trong hang hốc rừng rú; người da trắng văn minh hơn một tí thì đã biết mặc quần áo và ăn bằng xiên tức là bốn ngón; còn người Việt thì chỉ dùng có hai ngón mà thôi, tức là dùng đũa. Văn minh chưa?




Nghe tôi cười nhạo như vậy mà tên người Ấn không tỏ dấu tức giận gì, nhưng cứ bình tĩnh đợi cho tôi nói cho đã rồi mới từ từ nói lại: “Này bạn, khi ba mình trao cho mình một món quà, thì bạn lấy hai cái gậy mà khều hay lấy bốn cái que mà chọc? Tôi thì tôi chẳng dám thế. Tôi sẽ cung kính giơ hai bàn tay ra mà lãnh nhận với lòng biết ơn. Người Ấn chúng tôi thấy mọi sự đều là ơn Trời ban: từng hơi thở, từng miếng ăn, từng ngụm nước, từng hạt cơm. Ăn cũng là một nghi thức đấy.”

Đang hí hửng đắc thắng, tôi bị cứng họng, thấy thẹn trong người. Phục tên này quá sức. Đúng là họ có con mắt thứ ba vẽ tượng trưng ở trán. Chẳng lạ gì nhiều nhà khảo cứu đã từng nói tới hạch tuyến Pituitary và Pineal ở chính điểm trên.



CÁI THẤY CỦA CON KIẾN


Một con kiến đang bò trên mặt một tờ giấy, ra sức bò từ đầu này sang đầu kia. Một người đứng quan sát nó bò như vậy vừa tới đầu bên kia thì liền nẩy ra ý vui vui là gấp tờ giấy lại cho đầu và cuối trang giấy giáp vào nhau. Con kiến lấy làm lạ là nó bỗng gặp lại chỗ nó đã khởi hành mà không hiểu tại sao.
Đối với con kiến thì thế giới của nó là cái mặt phẳng hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Nó không thể hiểu và thấy được chiều kích thứ ba gọi là hình học không gian: chiều đứng. Đối với nó thì “thế gian” chỉ vỏn vẹn trong tầm mắt trên tờ giấy. Nếu có người bỏ một miếng mỡ nhỏ vào trên mặt giấy thì nó khoái trá mò đến kiếm ăn khen ngon rốt rít, nhưng nó không thể hiểu miếng mỡ từ đâu tới. Đối với nó, việc miếng mỡ “hiện ra” trên mặt giấy là một phép lạ. Hình ảnh này cũng giúp hiểu một điều xem ra rất mâu thuẫn trong đạo là việc tin Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa hằng hữu, “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” và việc Chúa hiện ra. Chúa vẫn luôn ở đây chứ, nhưng chỉ thấy Chúa “hiện ra” thực khi nhìn với con mắt trong một chiều khích cao hơn mắt con kiến, vẫn được gọi là con mắt thứ ba, con mắt của tâm, cũng gọi là con mắt của lòng tin.


Chúng ta vẫn thường nói: Mặt trời mọc và mặt trời lặn. Sự thật có phải vậy đâu. Nói như thế cũng giống như con ếch ngồi đáy giếng bảo trời đất chỉ bằng cái vòng tròn trên miệng giếng kia. Cho đến thời Isaac Newton bỗng thấy một sự thật khác qua chuyện nhìn trái táo rụng mà “thấy” được, phát minh ra định luật về trọng lực.
Quả thực, Newton và Descartes đã ghi mốc cho một nền văn minh gọi là khoa học kỹ thuật từ Âu Châu tiến đến tột đỉnh ở Mỹ như ngày nay. Sự vật được nhìn như những “thực thể” hoàn toàn vật chất tách rời biệt lập, để được đo lường cân lượng, để trở thành những kết luận, những định luật, định lý.


Cái nhìn và cái thấy mới, được gọi là “văn minh” này, có thể diễn tã đơn giản là con kiến trước đây chỉ biết bò trên mặt phẳng, bây giờ biết bò trong một cái hộp vuông có chiều đứng. Nó bèn vênh mặt lên tự hào đã bá chủ được “vũ trụ.” Cho đến một hôm nó cố gắng mò mẫm bò lên được mặt trăng, chưa kịp gáy để khoe mẽ thì bỗng dưng cụt hứng khi nhìn về trái đất và thấy một sự thật khác: tất cả những đo lường, những dinh thự chọc trời, những bon chen ở dưới kia sao mà nhỏ bé li ti một cách tội nghiệp đến thế! Rồi nhìn ra chung quanh: vũ trụ bao la với triệu thái dương hệ, có những ngôi sao vừa ra đời, có những ngôi sao đang bay vào hố đen thăm thẳm gọi là “black hole.” Con người bằng ấy năm “văn minh” mà sao lệt bệt quá vậy? Cứ tưởng tượng xem: văn minh gì mà cứ phải bò lết trên mặt đường bằng những phương tiện mà loài người gọi là xe hơi, dù là xe láng hay xe sắp ra nghĩa địa.
Mà cả trái đất cũng là một phi thuyền đang bay vào khoảng trống vô biên. Thời gian cả triệu năm đã qua cũng chỉ như mới ngày hôm qua. Một đời người sống hai chục năm hay tám mươi tuổi nhìn lại cũng chỉ là một koảnh khắc hết sức tương đối. Ôn lại lịch sử con người từ cái ngày còn ở trong hốc đá cho đến khi biết mặc quần jeans, mấy ngàn năm tưởng như một nháy mắt. Cuối một thế kỷ, cuối một ngàn năm, cuối một vòng xoay của một chấm nhỏ li ti trong giải ngân hà, những sinh vật gọi là loài người ngồi tính sổ, rốt cuộc rồi cũng thấy mọi thành quả đỉnh cao, mọi tiến hóa tất yếu của lịch sử chỉ là chuyện nhảm nhí. “Con kiến” mang mặt người như vừa thức tỉnh vượt lên khỏi cảnh “ếch ngồi đấy giếng” với một cái nhìn mới trong một chiều kích mới.



TIN VUI GỬI NGƯỜI MANG CON MẮT THỊT


Nhiều người vẫn có cảm tưởng mình bị nhốt giam tù túng trong một cái bị thịt, con mắt không sao mà nhìn cao và xa hơn được. Ngay cả về thể lý,con mắt mình chắc chắn là không sáng bằng đôi mắt chim cú, không tinh và đầy quyền năng như con rắn nhìn chú gà con, không đơn thành trong sạch bằng đôi mắt bồ câu, không nhìn xa được bằng mắt chim phượng. Người ta đã từng khám phá ra mắt con ruồi có tới ba ngàn lăng kính, chính xác hơn ống kính nổi tiếng nhất thế giới ngày nay như Zeiss, Leica...



Người ta vẫn đổ tội cho ông A-đam và E-và tham ăn tham uống mà con mắt thứ ba là hạch tuyến Pituitary và Pineal bị vít lại, nên hóa ra mù tối mất đi chất sáng nguyên thủy. Nhưng thực ra thì những chuyện lắng lo lẩm cẩm và những vật lộn hằng ngày của mỗi người bây giờ càng ngày càng che lấp tầm mắt chẳng còn có thể nhìn thấy gì nữa. Cộng thêm vào đó là những ham hố, những tham vọng, những bon chen, khiến cho con mắt càng bị che phủ mờ mịt đi. Nhìn lên chỉ thấy ganh tị chưa bằng người; nhìn xuống chỉ thấy những vênh mặt tự đắc; nhìn gần chỉ toàn thấy những giấy đòi nợ và những bon chen hơn thiệt triền miên, đau khổ vật vã với những giằng co đi vào đường cùng. Đúng là quẩn quá!
Đến một khoảnh khắc nào đó mình bỗng dưng bình tỉnh, tầm mắt được mở ra, thoát ra khỏi những chặn vít thường ngày mà nhâm nhi với nhà thơ Nguyễn Trùng Khánh ở New Orleans:


Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngát
Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la
Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt
Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà.


Cũng chính vì tầm mắt được nâng lên khi nhìn trời cao biển rộng mà mình bỗng quên đi được những nhỏ nhặt thường ngày mà mọi khi mình vẫn cho là lớn lao vĩ đại. Tầm kích của sự vật, của vấn đề tự nhiên thay đổi giá trị. Và con mắt được mở ra với tầm nhìn xa hơn nữa, vượt cả không gian và thời gian mà nhìn về quê nhà thực sự là hương hằng thể.


PHÚT TỊNH TÂM

(Lễ Chúa Lên Trời)


Hòa mình vào hình ảnh Chúa Giêsu lên Trời, mỗi người sực nhận ra một chiều kích mới: Con người có thể vượt lên khỏi cái bị thịt vốn giới hạn nhốt giam mình trong không gian và thời gian, trong ranh giới hạn cục của hai bờ sinh tử.
Chúa Giêsu đã làm người, đã trở thành một A-đam mới, con người kiểu mẫu mới, và đã vươn tới vô hạn. Người tin đạo nhận được tin vui lớn là nhìn thấy được Ngài ngay bên cạnh đây lúc này. Trong 33 năm làm người ở Do Thái, Ngài cũng từng bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Trong thời gian đó, nếu Ngài đang ở Giêrusalem thì không thể nào lại có thể có mặt tại Nagiarét, phương chi là ở New Orleans hay Sài gòn. Lên Trời là vượt qua tất cả những giới hạn đó để có mặt mọi nơi, mọi lúc. Đây đúng là một Tin Vui lớn. Sách Tông Đồ Công Vụ kể rõ: “9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”
Cũng như trong một quán ăn trên đường Emmaus, Chúa Giêsu cũng biến đi như vậy:
“28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa.29 Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.”
(Luca 24:28-31).



Mắt đây chính là hai con mắt thịt bị che đi để con mắt thứ ba, con mắt của niềm tin mở ra, thấy được Chúa vẫn luôn ở với mình và trong mình mọi nơi mọi lúc như Ngài đã phán: “Con ở trong chúng và Cha ở trong con. Và con yêu thương chúng như Cha đã yêu thương Con.”
Lên Trời là mở ra một chiều kích mới. Và biến đi không phải là chạy đâu xa, mà là hiển hiện vào trong tâm mỗi người. Chính vì thấy được như vậy mà các tông đồ đã trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng, rồi bung đi khắp thế giới loan báo Tin Vui cho thời đại mới.
Xin Chúa cho con cũng thấy được Chúa đang hiện ra ở ngay đây, lúc này. Phút giây lắng đọng này chính là lúc con được khai mở con mắt thứ ba mà tâm nguyện với Chúa:
Vào trước nhan thánh Chúa đây,
con vui sướng tạ ơn phục bái tôn thờ,
vì con thật có phúc được nhận Chúa toàn năng làm Chúa cứu độ con,
không gì là Chúa không thể làm được.
Con xin được cùng Mẹ Maria ngợi ca tình Chúa mãi mãi thương con.

Lm. Trần Cao Tường
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 15.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

TẶNG VẬT CHO CUỘC ÐI TÌM

Lm. Nguyễn Tầm Thường




Có người Biệt phái kia mời Ngài tới dùng bữa với mình. Ngài vào nhà người Biệt phái và lên giường ăn. Và này: Một phụ nữ, một người tội lỗi trong châu thành. Biết Ngài dùng bữa tại nhà người Biệt phái, người phụ nữ ấy xách theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Ðứng phía đằng sau chân Ngài, khóc nức nở, sa nước mắt đẫm ướt chân Ngài. Xõa tóc trên đầu, cố lau sạch. Và tha thiết hôn chân Ngài và xức dầu thơm (Lc. 7: 36-38).

Mai Ðệ Liên đã tìm gặp Chúa. Tìm là giai đoạn sôi bỏng nhất của tình yêu. Gặp mặt nhau nhưng chưa chắc biết tên nhau. Biết là một chuyện nhưng có để ý nhau không lại là một chuyện khác. Cho dù có để ý nhau nhưng chưa chắc đã tìm nhau. Bởi đó, những chuyện tình đi tìm nhau bao giờ cũng là những chuyện tình không quên. Tìm nhau là giai đoạn đồng cảm nhất trong tiến trình của yêu thương. Nói đến phải đi tìm là nói đến vất vả, nên những chuyện tình tìm nhau thường là những chuyện tình gian nan.

Tặng vật là niềm tin

Ðến với Ðức Kitô, người đàn bà này đã mang theo ba tặng vật: Niềm tin, mái tóc và bình dầu quý. Tìm là xác định một điều có trong khi chưa có. Tin là có để rồi miệt mài theo đuổi điều chưa có là một thứ gian nan không dễ. Niềm xác định có càng nhiều thì mới càng có nỗ lực. Những đêm bâng khuâng gọi hồn, tiếng con tim ngập ngừng đếm từng khoảnh khắc. Và bữa tiệc chiều nay, đôi khi nghe cõi lòng chùng xuống khi hình dung ra những cái nhìn soi mói, nhưng người đàn bà này vẫn chuẩn bị cho một cuộc đi tìm rất nhiệm mầu trong linh hồn. Bà cần gặp Ðức Kitô.
Xét theo khung cảnh thì đây không phải là bữa ăn thường mà là bữa tiệc. Tôi không nghĩ rằng người phụ nữ này được mời, vì Biệt phái kết án "gái điếm và thu thuế". Người phụ nữ này đã nổi tiếng tội lỗi trong châu thành vì ai cũng biết. Nếu vậy, càng không thể là khách mời của Biệt phái. Khách được mời sẽ được lấy nước rửa chân, xức dầu và hôn chào. Vậy làm sao người phụ nữ tội lỗi này lọt được vào? Ðối với một kẻ tội lỗi bị xã hội kết án thì đi tới đâu cũng phải đương đầu với những con mắt tò mò. Có thể người phụ nữ này phải giả dạng để vào được phòng khách. Có thể cô ta lẩn đi vào ngõ sau. Có thể cô ta bất chấp mọi ngịch cảnh xông đại vào. Trong bao nhiêu giả thuyết, ta không biết cách nào là đúng. Hoặc cho dù có được vào tự do, thì điều ta biết chắc là người phụ nữ này đã phải chấp nhận những lời kết án cho một lần gặp gỡ.


Chợt đọc qua đoạn Tin Mừng, tôi thấy hình ảnh người phụ nữ ngồi khóc bên chân Chúa là một hình ảnh êm đềm. Thoáng qua, tôi thấy người phụ nữ có thể gặp Chúa một cách nhẹ nhàng. Nhưng nhìn kỹ lại, tôi thấy gặp gỡ với Chúa, cô ta phải lên đường vô cùng quyết liệt. Mình không phải là khách. Người ta dòm ngó xầm xì. Bao nhiêu người chỉ trỏ. Có khi phải bẽ mặt vì bị đuổi đi.

Trong quá khứ, không biết có khi nào tôi liều thân đi gặp Chúa như thế chưa. Những kỷ niệm tìm nhau trong gian nan là những kỷ niệm khó quên. Nếu tôi không nhớ có khi nào tôi vất vả đi tìm Chúa như thế chưa, điều đó có nghĩa là tôi chưa có những "chuyện tình gian nan", dù có đôi ba lần liều thân tìm gặp Chúa, sự liều thân ấy cũng chắc là nhạt nhẽo lắm.

Dầu thơm của khổ đau

Cho cuộc đi tìm này người phụ nữ đã mua một bình bạch ngọc, tìm loại dầu thơm quý. Tặng nhau một cành hồng, gởi nhau một lọ nước hoa là chuyện thường. Nhưng dầu thơm ở đây là hương thơm có thể bay ngược chiều gió. Bởi, nó là hương thơm của trắc ẩn, là đóa hoa lòng. Chắc hẳn tiền mua bình bạch ngọc đến từ những đêm nhục nhằn câm nín, từ nước mắt dàn dụa trên những đồng bạc bất hạnh nằm rơi vãi trên giường. Ðời là hoang vu. Cúi mặt đi trong phố vắng khi đèn chiều cứ ảm đạm. Người khách ra về, cánh cửa sập lại, cúi nhặt những đồng bạc trong cơn mệt mỏi chán chường. Người gái điếm ấy gom số tiền đã chắt chiu từ những tháng ngày cùng cực. Xuống phố, không tiếc lòng, mua một bình ngọc quý, một cân dầu thơm. Rồi, từ từ, đổ hết cho phí đi cân dầu hảo hạng, cho phí đi những đồng tiền khổ đau.

Trọn vẹn mái tóc xám hối

Tặng vật thứ ba là mái tóc của cô ta. Người con gái nào không thương mái tóc. Ở Mai Ðệ Liên chắc hẳn cũng có những ngày mới lớn như những nàng thiếu nữ Jêrusalem. Cô cũng cũng có những áng mây hồng của tuổi bâng khuâng, có cánh bướm nhỏ trong giấc mơ về đậu trên bờ tóc. Tóc mai cũng đã thương những sợi vắn sợi dài. Hôm nay, thương yêu có thể là muộn màng. Thương nhớ có khi đã mất mát. Bây giờ, thương đau là gương soi. Những sợi tóc ấy, giờ đây thả xuống cho xuôi dòng. Những sợi tóc đó nếu có một thủa mây bay tà đạo, thì hôm nay ngoan ngoãn theo lời xin xám hối. Cài vào những sợi tóc ấy là niềm tin để chải xuống một dòng đời lỗi lầm.

Lạy Chúa, người phụ nữ ấy đã lấy tất cả thương đau đời mình để mua cân dầu rồi đổ đi, đổ cho cạn đến giọt sau cùng. Con chỉ nhìn vào hình ảnh Chúa tha thứ tội lỗi một cách nhẹ nhàng, mà ít nhìn vào thái độ ao ước tận cùng của niềm tin, của sự quyết liệt trọn vẹn trong trái tim người phụ nữ.
Ở trong con, nhiều lần cũng tìm gặp Chúa, nhưng không bao giờ đổ tất cả cho một cuộc gặp gỡ. Bởi đó, gặp gỡ nào giữa con với Chúa cũng cứ là những gặp gỡ dang dở.


LM Nguyễn Tầm Thường, (S.J trích trong "Con biết con cần Chúa")



CÔNG CHA…NGHĨA MẸ.

Lm. Anphong Trần Đức Phương


“Ngọt Ngào Tình Mẹ, Tình Cha,
Yêu thương dưỡng dục đưa ta vào đời.”


Mỗi năm vào Tháng Năm và Tháng Sáu, chúng ta lại có dịp đặc biệt mừng ngày “Tôn Vinh Mẹ” (Mother’s Day) và ngày “Tôn Vinh Cha” (Father’s Day). Nói là “đặc biệt”, vì không phải chỉ khi đến những ngày này, chúng ta mới nhớ đến cha mẹ chúng ta, vì tình hiếu thảo đối với cha mẹ tất nhiên luôn tràn ngập trong tâm hồn mỗi người. Nhưng hai dịp này là những dịp để chúng ta biểu lộ một cách cụ thể tấm lòng của chúng ta đối với các bậc thân phụ mẫu:

“Công Cha Như Núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ Như Nước Trong Nguồn Chảy Ra!”


Đặc biệt, đối với các bậc cha mẹ đã hy sinh biết bao, vất vã biết bao khi phải bỏ lại quê hương thân yêu dìu dắt gia đình đi sang các miền đất mới tại các nước như Hoa-Kỳ này, vừa khác phong tục, khí hậu, vừa khác tiếng nói. Đặc biệt hơn nữa, đối với các bậc Cha Mẹ đã phải đau khổ bỏ lại quê hương Miền Bắc Việt Nam để đưa gia đình di cư vào Miền Nam năm 1954; rồi sau bao nhiêu công lao xây dựng gia đình tại Miền Nam, giờ đây lại bỏ lại tất cả và di tản đi ra nước ngoài với bao cực nhọc và khổ đau.
Bao nhiêu vất vả, lo lắng các bậc Cha Mẹ Việt Nam đã và đang phải trải qua để chẳng những nuôi sống đàn con cháu, mà còn phải khôn khéo vừa giúp các em hội nhập được vào nếp sống, vào nền văn hóa của đất nước mới lạ (như Hoa-Kỳ chẳng hạn), vừa giữ được nền đạo đức, văn hóa, ngôn ngữ và truyền thống tốt đẹp của các gia đình Việt Nam.

Trong nhiều năm làm việc mục vụ cho người Việt Nam thuộc các cộng đồng Việt Nam tại Hoa-Kỳ, chúng tôi thường có dịp được tiếp xúc với nhiều giáo dân và hàng giáo phẩm Hoa Kỳ; các vị đó thường nói: “Nước Mỹ và Giáo Hội tại Hoa-Kỳ rất cám ơn sự đóng góp của người Việt-Nam cho đất nước Hoa-Kỳ về nhiều phương diện, nhưng nhất là về truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Có lẽ nhờ vậy mà các con em Việt Nam lớn lên ở Hoa-Kỳ thường rất chăm học và đạt được nhiều thành qủa tốt về học vấn . Chưa kể còn có nhiều thanh niên nam nữ Việt Nam sau khi tốt nghiệp Đại Học và có nhiều người có bằng cấp cao, nhưng vẫn được “ơn gọi” đi tu làm Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cho nhiều Giáo phận và Dòng tu tại Hoa-Kỳ; như vậy cũng đóng góp đáng kể cho Giáo Hội tại Hoa Kỳ nói riêng và cho cả đất nước Hoa Kỳ nói chung. Các vị thường khuyến khích chúng tôi nên nỗ lực giúp duy trì nền văn hóa tốt đẹp và truyền thống gia đình của dân tộc Việt-Nam nơi các cộng đồng Việt Nam tại Hoa-Kỳ. Các vị cũng khuyến khích nên giúp các em Việt Nam lớn lên tại Hoa-Kỳ vẫn có thể nói được tiếng Việt-Nam. Còn tiếng Anh thì tất nhiên lớn lên và đi học là các em rất thông thạo. Hơn nữa biết thêm một ngôn ngữ là mở rộng thêm tầm trí thức của con người.

Những người di cư từ các nơi sang Hoa-Kỳ thuộc các thế hệ trước cũng đã phải vất vả biết bao để xây dựng các gia đình của họ trên phần đất này; vì thế con cháu của họ đã tìm cách này hay cách khác để tỏ lòng tri ơn các bậc sinh thành, chẳng những một cách riêng tư nơi từng gia đình, qua các truyền thống và tôn giáo riêng, mà còn muốn tổ chức chung một lễ mừng cho toàn quốc Hoa-Kỳ, và thế là “Ngày Tôn Vinh Mẹ” (Mother’s Day) và “Ngày Tôn Vinh Cha” (Father’s Day) đã xuất hiện trên toàn quốc gia Hoa Kỳ.

Theo tài liệu trong cuốn “American Book of Days” và những tài liệu lấy trên “Mạng Tin Học” thì gốc tích của “Ngày Tôn Vinh Mẹ” và “Tôn Vinh Cha” như sau:

Ngày “Tôn Vinh Mẹ” có trước. Trong thời gian Nội Chiến tại Hoa-Kỳ (Civil War), vào năm 1872, bà Julia Ward Howe gợi ý là ngày 4 tháng 7 (July 4th) hàng năm nên được gọi là “Ngày Của Mẹ” (Mother’s Day) và đặc biệt để cổ võ cho hòa bình. Bà đã có công tổ chức những buổi “họp mặt” hằng năm vào ngày này tại Boston tiểu bang Massachusetts được một số năm; sau đó không được mấy người hưởng ứng. Cho mãi đến năm 1907 , bà Ana Jarvis ở Philadelphia bắt đầu cổ võ việc thành lập một ngày “Tôn Vinh Mẹ” cho toàn quốc. Bà bắt đầu kêu gọi Nhà Thờ Grafton (West Virginia) mừng lễ này vào Chúa Nhật thứ hai Tháng Năm (năm đó trùng chính vào ngày giỗ của thân mẫu của bà). Năm sau, ngày này cũng được mừng cả ở Philadelphia. Thấy việc mừng nầy có ý nghiã, nên bà và nhiều người ủng hộ bà đã viết thơ yêu cầu các Nhà Thờ, các doanh nhân, các chính trị gia thành lập “Ngày Tôn Vinh Mẹ” cho toàn quốc Hoa-Kỳ. Việc cổ võ nầy rất thành công, nên đến năm 1911 thì hầu như ngày này được mừng ở khắp các Tiểu Bang. Đến năm 1914, Tổng Thống Woodrow Wilson (1856-1924) chính thức tuyên bố ngày “Tôn Vinh Mẹ” cho toàn quốc Hoa-Kỳ và hàng năm mừng vào Chúa Nhật thứ II Tháng Năm.

Ngày “Tôn Vinh Cha” (Father’s Day) được thành lập do công ơn của Bà Sonora Smart Dodd ở Spokane (Tiểu Bang Washington). Bố của bà Sonora tên là William Smart. Ông là một cựu chiến binh thời Nôi Chiến (Civil War). Ông góa vợ khi bà vợ ông chết lúc sinh đứa con thứ sáu. Thế là ông đã quên mình hy sinh cả cuộc đời làm lụng vất vả tại một nông trại để nuôi dưỡng và giáo dục cả 6 người con nên người. Vì thế bà Sonora rất cảm phục và luôn tôn vinh công lao người cha của bà. Năm 1909 vào ngày Chúa Nhật Tôn Vinh Mẹ, khi bà và gia đình đi dự lễ ở Nhà Thờ, bà rất cảm động khi nghe bài giảng về Công Ơn Cha Mẹ. Bà nghĩ đến công ơn đặc biệt của cha bà và nảy ra ý định tổ chức một Ngày Tôn Vinh Cha. Vì bố bà sinh vào tháng 6, nên bà đã tổ chức “Ngày Tôn Vinh Cha” đầu tiên tại Spokane (WA) vào ngày 19 tháng 6 năm 1910. Vào thời gian trước đó ít lâu, năm 1908 ông Robert Webb cũng đã thành công trong việc vận động tổ chức Ngày Tôn Vinh Cha tại một Nhà Thờ ở Fairmont, West Virginia. Tuy nhiên nhờ sự vận động mạnh mẽ của Bà Sonora mà ngày Tôn Vinh Cha được phổ biến đến khắp nơi tại Hoa-Kỳ. Vào năm 1924, Tổng Thống Calvin Coolidge(1872-1933) đã chính thức tuyên bố “Ngày Tôn Vinh Cha”cho toàn quốc Hoa-Kỳ và mừng vào ngày Chúa Nhật III Tháng Sáu hằng năm.

Trong ngày “Tôn Vinh Mẹ” và “Tôn Vinh Cha”, các người con tặng cha mẹ các thiệp chúc mừng, các món quà, những bài thơ, bài văn ca tụng công ơn cha mẹ. Các giáo dân đến Nhà Thờ để cầu nguyện cho cha mẹ: các vị còn sống cũng như các vị đã qua đời. Căn cứ vào các tài liệu, thì theo truyền thống người Hoa-Kỳ thường đeo hoa Cẩm Chướng (Carnation) vào “Ngày Tôn Vinh Mẹ” (hoa màu trắng nếu mẹ đã qua đời; hoa màu thắm nếu mẹ còn sống) và đeo hoa hồng vào Ngày Tôn Vinh Cha (hoa hồng màu trắng nếu cha đã qua đời; và hoa hồng màu đỏ nếu cha còn sống).

Trên đây là lịch sử hai ngày “Tôn Vinh Mẹ” và “Tôn Vinh Cha” tại Hoa-Kỳ. Theo tài liệu, thì hiện nay có tới 47 quốc gia hằng năm có “Ngày Tôn Vinh Mẹ” mặc dầu vào các ngày tháng khác nhau. Riêng các nước như Đan Mạch, Phần Lan, Thổ Nhỉ Kỳ, Úc, và Bỉ cũng tổ chức “Ngày Tôn Vinh Mẹ” vào cùng ngày như ở Hoa-Kỳ. Tại Anh Quốc thì mừng vào Chúa Nhật IV Mùa Chay và ở Á Căn Đình (Argentina) thì mừng vào Chúa Nhật Thứ Hai Tháng 10. Cũng theo tài liệu, thì hiện nay “Ngày Quốc Tế Tôn Vinh Mẹ” là ngày 11 tháng 5 hàng năm. Riêng tại Canada “Ngày Tôn Vinh Mẹ” và “Ngày Tôn Vinh Cha” cũng mừng vào các ngày Chúa Nhật như ở Hoa-Kỳ.

“Công cha, nghĩa mẹ” thật là lớn lao: “nghĩa nặng, tình sâu”; vì thế từ thời xa xưa dân tộc nào, tôn giáo nào cũng có những ngày đặc biệt “giỗ cha” “giỗ mẹ” để nhớ đến và nhắc nhở con cháu cùng nhớ đến công ơn lớn lao của các bậc cha mẹ đã qua đời. Còn đối với các vị còn sống, con cháu cũng luôn tìm dịp tỏ lòng hiếu thảo cách nầy hay cách khác. Tại Việt Nam, chúng ta tôn vinh đặc biệt các bậc ông bà cha mẹ vào dịp Tết Nguyên Đán. Còn các dân tộc khác thì tùy theo.

Trong Kinh Thánh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, đều có rất nhiều chỗ nói đến lòng hiếu thảo đối với cha mẹ (chẳng hạn: Sách Khởi nguyên 3:20; Xuất hành 20:12; Lêvi 19:3; Đệ Nhị Luật 5:16; 2Các Vua 4:30; Cách ngôn 10:1; Isaia 66:13; Egiêkien 16:44; Luca 2:51; Gioan 19:26-27); đặc biệt là dụ ngôn “Người Con đi hoang” (Luca 15:11-32) đề cập đến Thiên Chúa như “Người Cha Nhân Hậu” đối với nhân loại tội lỗi. Trong kinh “Lạy Cha” (Matthêu 6:9-13; Luca 11:2-4), Thiên Chúa cũng được xưng tụng như “Người Cha” ban phát mọi ơn lành, sẳn sàng tha thứ mọi lỗi phạm của chúng ta, nếu chúng ta cũng biết tha thứ cho nhau. Hơn nữa, trong 10 “Giới răn của Chúa”, thì giới răn thứ bốn dành riêng để nói đến bổn phận phải “thảo kính cha mẹ”.

Như vậy Thiên Chúa đã khắc ghi lòng tôn kính và tri ơn cha mẹ vào tâm hồn mỗi người như một bản tính. Con người bình thường ở mọi nơi, mọi thời, đều có tấm lòng thảo kính cha mẹ.
Tại Việt nam có những nhạc sĩ đã sáng tác những bản Thánh Ca tôn vinh các bậc Cha Mẹ, và đã đựơc ghi vào những cuốn băng Thánh ca , lời và nhạc rất hay, rất ý nghĩa như : “Cầu cho Cha Mẹ “, “Công Cha, Nghĩa Mẹ”, “Công Đức Sinh Thành”… Nhiều gia đinh đã mua về để nghe và nuôi dưỡng tinh thần hiếu thảo cho con cháu.
“ Xin Chúa chúc lành cho đời Cha Mẹ của con. Công ơn Ngừơi như núi non, dưỡng nuôi con bao ngày vuông tròn…” .
“Ai qua là bao chốn xa, thấy đâu vui cho bằng mái nhà. Mai con lớn lên rồi, ra đi tung cánh trong đời, dầu xa vô bờ, vẫn nhớ đến tình Mẹ Cha…”
(Trích trong bản Thánh ca “Cầu Cho Cha Mẹ # 3)
Lm. Anphong Trần Đức Phương




VÔ TÌNH GIEO CỎ DẠI

Đỗ Thảo Anh


Phượng là người mẹ trẻ mới có một con gái đầu lòng lên 3. Phượng yêu con lắm, nhưng trong cách biểu lộ tình yêu đối với con, Phượng đã có những điều khiến anh Vũ, chồng Phượng phải nghĩ ngợi. Nguyên bên cạnh nhà Phượng có một chú bé bằng tuổi bé Minh, con của Phượng. Ngày ngày, hai bé vẫn vui chơi, đùa nghịch với nhau. Điều khiến anh Vũ nghĩ ngợi là vì có những lần Phượng tỏ thái độ quá chú trọng con mình đến nỗi nói những lời thiếu tế nhị với con người khác, chẳng hạn vừa mặc cho con chiếc áo đầm vẽ hình và thắt nơ có tua dài đẹp đẽ, Phượng trầm trồ : “Ôi chao, bé Minh đẹp quá ! Cu Kha đâu có áo đẹp như bé Minh. Áo cu Kha xấu lắm nhé !”. Hoặc Phượng dỗ dành con : “Con nín đi, mẹ thương con lắm ! Mẹ chả thương cu Kha đâu, mẹ thương mỗi bé Minh thôi !”. Hay có lúc Phượng khen con : “Bé Minh hát hay lắm cơ. Cu Kha chả biết hát gì cả !”…
Phượng đã nói những lời như thế một cách tự nhiên, hoàn toàn không do một sự ghét bỏ nào đối với chú bé hàng xóm. Chỉ vì quá yêu con nên Phượng muốn so sánh con với những cô cậu bé khác để bé Minh vui thích thấy mình hay hơn, giỏi hơn, được yêu quý hơn … Phượng xem đó như là một cách “động viên tâm lý” .

Nhưng anh Vũ lại có những suy nghĩ khác và anh đã góp ý với vợ : “ Nhưng em ạ, đó là niềm vui của sự ích kỷ, niềm vui trên những thua thiệt của kẻ khác. Mặt khác, khi một đứa bé luôn được đề cao, cho rằng mình hay, giỏi hơn chúng bạn, nó sẽ có mặc cảm tự tôn, háo thắng. Do đó nó sẽ bực tức khi thấy bạn của nó mặc áo đẹp hơn, được khen ngợi nhiều hơn, có những điểm trổi vượt hơn nó. Từ đó nảy sinh tính ghen tị, mà ghen tị thì sẽ lại dẫn đến những tính xấu khác …”

Phượng nhận ra những sai lầm trong việc giáo dục con. Trước đây, Phượng cứ tưởng “động viên tâm lý” cho con cách như thế sẽ thúc đẩy con tốt hơn nhưng khi nghe chồng phân tích, Phượng nhận ra mình đã “vô tình gieo cỏ dại”. Có ai đó đã nói, giáo dục con trẻ là phải gieo vào lòng con những tình cảm nhân hậu, đúng mực và chan hoà với anh em, bạn bè. Giờ đây, Phượng mới ý thức sâu sắc hơn về điều này.


Đỗ Thảo Anh



Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương

(Ngô Thụy Miên – Mùa Thu Cho Em)
Trần Ngọc Mười Hai
(2 Samuel 22: 20)

Là nhạc sĩ, lời anh hỏi cũng chí lý. Là thường dân, câu em nghe, rày thấy quen. Hỏi-nghe/nghe-hỏi, là chuyện thường ngày, em và tôi vẫn cứ sống. Sống mà không hỏi, để rồi nghe/sống mà không nghe, để rồi hỏi, là cuộc sống chẳng lý thú, tí nào. Hoặc, sống mà cứ hỏi, rồi lại nghe/nghe rồi lại cứ hỏi mãi, thì cuộc sống sẽ như điên/như dại, mất thôi.
Sống lý thú hoặc như điên dại, là sống mà không thấy rằng mình đang sống. Là, sống không có tình/có lý, cũng phi lý như người sống mà không ra hồn. Sống, mà như đang “chết trong lòng”. Hoặc, sống rất nhiều. Hạnh phúc chẳng bao nhiêu.
Nói dông nói dài/nói dai nói dại, chẳng qua là bần đạo chỉ muốn nói về nhiều thứ/nhiều chuyện rất muốn nói. Nhưng, chưa dám. Hoặc chưa chịu nói, mà thôi. Nói gần nói xa, bần đạo thấy đôi lúc có nhiều điều cũng ưu tư/muốn nói. Nhưng, vẫn cứ thử. Thử mãi, mà “vẫn chẳng nói nên nhời”. Thôi thì, lần này lại thử nói cho xong. Cho rồi. Để còn nghe bà con thiên hạ nói, chứ.
Nói như thế, cũng đủ. Nay, ta nghe thêm lời người viết nhạc, vẫn hỏi:

“Và em có nghe, khi mùa thu tới
mang ái ân, mang tình yêu tới
em có nghe, nghe hồn thu nói:
mình yêu nhau nhé.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Ấy đó, là câu hỏi. Cũng có nghĩa, như câu nói rất chuẩn mực. Như, bất cứ câu nói của những người đương yêu. Ở bất cứ nơi đâu. Lúc nào. Thời xa xưa, có tổ tiên ông bà, vẫn từng nói. Nói, cả vào lúc, có những người như bạn/như tôi, vẫn muốn nghe. Nói và nghe, cả những chuyện tình, mà người xưa vẫn gọi là ái ân/ân ái- còn gì bằng? Nghe và nói, chuyện lành thánh, rất “anh em” mà người ngày nay vẫn thân mật, gọi như thế.
Như thế, là như thế này:

“Em có hay, mùa thu mưa bay gió nhẹ
Em có hay, thu về hết dấu cô liêu
Và em có hay, khi mùa thu tới
bao trái tim, vương mầu xanh mới.
Em có hay, hay mùa thu tới hồn anh ngất ngây.
“ (Ngô Thụy Miên – bđd)

Đã bảo! Khi yêu đương, ai cũng nắm chắc rằng: bầu trời được sơn vẽ toàn mầu xanh. Mầu, của hy vọng. Sự sống. Có diệp lục tố. Rất yêu thương. Hạnh phúc. Sắc mầu của thương yêu, là mầu và sắc của mùa thu. Có mưa giăng lá đổ, ở đâu đó? Sắc mầu của yêu thương, là mầu và sắc của Lời Vàng khi xưa, Chúa vẫn bảo:

“Người đem tôi đến chỗ thảnh thơi,
vì yêu thương tôi
nên Người giải thoát.

(2 Samuel 22: 20)

Yêu thương, với nhà Đạo, là như thế. Vẫn thảnh thơi. Giải thoát. Chứ không ràng buộc. Dù, có ràng và buộc nhau, bằng những câu hỏi. Rất như sau:

“Em có mơ, mùa thu cho ai nức nở,
em có mơ, mơ mùa mắt ướt hoen mi.
Và, em có mơ, khi mùa thu tới,
hai chúng ta sẽ cùng chung lối
em với anh, mơ nùa thu ấy,
tình ta ngát hương…”

(Ngô Thụy Miên – bđd)


Thật ra, khi yêu nhau, người người chẳng buộc chẳng ràng nhau, bằng bất cứ thứ gì. Có chăng, chỉ bằng “tình ta ngát hương”. Với điều kiện, hương” ấy cứ ngát hoài và ngát mãi, khi “hai chúng ta sẽ cùng chung lối…” Dài dài. Mãi mãi. Rất không thôi. Vấn đề là như thế. Yêu đương là như vậy. Yêu đương, còn có nghĩa: lúc nào ta cũng “đương yêu”. Cũng cho nhau thứ tình, rất ngát hương. Dù tình đó, có là tình thu, rất nức nở”. Của mùa thu yêu đương, nức nở, ở bên dưới:

Truyện rằng:
“Có người đàn ông đang đánh bóng chiếc xe “xịn” mình mới mua, thì đứa con mới chừng bốn tuổi, đã biết nhặt đá/nhặt sỏi vẽ nhiều đường ngoằn ngoèo lên xe, của ông bố. Bố mình điên tiết đến nức nở. Giận quá, ông bèn cầm bàn tay nhỏ cháu vừa dùng để vẽ, đánh mạnh nhiều lần. Nhưng, ông không nhớ ra rằng ông đang dùng chiếc khoá “mỏ-lét” dùng để vặn vít ốc, mà đánh con.

Kết quả là, từ phòng giải phẫu bệnh viện, bác sĩ cho hay: con trai ông đã bị dập mất mấy ngón tay, do nhiều chỗ gẫy. Tỉnh dậy sau ca mổ, đưa con nhìn bố bằng cặp mắt yêu đương trìu mến, hỏi rằng: ngón tay của con có mọc lại được nữa không? Ông bố nghẹn ngào, không nói nên lời. Tức tốc, trở lại chỗ chiếc xe đậu ở ngoài, đá mạnh nhiều cái vào thành xe. Ông cảm thấy lương tâm càng bị cắn rứt, khi nhìn vào vết gạch vẽ, thấy hàng chữ: “Bố ơi, con yêu bố lắm!”

Ngày hôm sau, người cha quyết định ra đi bằng viên đạn nhỏ kê nơi màng tang mình..”

Câu chuyện mà bạn và tôi, ta vừa nghe, cũng nức nở? Nhưng, chớ đổ tội cho mùa thu, nhiều tiếng nấc. Mà, chỉ nên trách người cha/người bố đã yêu thương, nhưng không đủ để dằn cơn nóng giận. Con trẻ, không nói tiếng “yêu” bằng lời lẽ. Mà chỉ dùng chữ viết. Rất nguệch ngoạc. Ngoằn ngoèo. Khó đọc.
Trong đời người, nhiều trường hợp cũng tương tự. Cũng yêu đương. Nhưng không da diết kiểu xưa/cách cũ như “ái ân”. Nồng nàn. Thắm thiết. Nhưng, đã chắc gì sẽ kéo dài.
Nói như nhà Đạo, khi ta nói tiếng yêu thương, là nói về một “giải thoát” như Thiên Chúa vẫn làm ta thoát giải. Giải và thoát, là Ngài giải cho ta thoát khỏi mọi ràng buộc. Khỏi giam hãm. Vì ghét ghen. Thù hận. Ràng buộc, vì lề luật. Khỏi, mọi điều bất ưng. Nức nở.
Sống ở đời, kinh nghiệm cho thấy nhiều điều mình rất bất ưng, nhưng vẫn cứ xảy đến. Ngược lại, có nhiều điều ta vẫn ưng và vẫn muốn, nhưng sao chẳng thấy đến. Chẳng xuất hiện. Cho đẹp đẽ. Hoặc, có xuất hiện đấy, nhưng vẫn quên. Quên, như chuyện “biết rồi khổ lắm nói mãi” của một độc giả nọ cứ gửi thư hỏi cha-già-biết-nhiều-thứ, ở Sydney, những câu sau đây:

“Tôi có người bạn, vừa kể cho nhau nghe về chuyện Hội thánh xin mọi người cầu nguyện cho các linh mục vào Thứ năm, mỗi đầu tháng. Đặc biệt, trong năm thánh dành cho linh mục. Những chuyện như thế, tôi chưa một lần nghe biết. Và, bạn nói: cũng chẳng rõ chuyện ấy, đến từ đâu. Là chuyện gì? Vậy, xin chỉ cho tôi biết, để cảm thông với các giáo sĩ , trọng Đạo mình. Xin biết ơn.”

Chưa nghe. Chưa chỉ. Đã biết ơn. Âu, đó cũng là thói quen của người nhà Đạo. Rất văn minh. Ở xứ người. Và, đấng bậc hôm nay cũng không ngại ngần, chuyện chỉ giáo. Chẳng cần ơn. Không cần huệ. Vẫn trả lời, như sau:

“Bạn của ông/anh nói rất đúng. Lâu nay, Hội thánh vẫn có thói quen yêu cầu mọi người nguyện cầu cho linh mục, vào ngày ấy. Chuyện này xuất tự chính Vatican, thành đô yêu dấu, của Đạo mình.

Toà Xá Giải La Mã, là cơ quan cao nhất ở Rôma có thẩm quyền và trách nhiệm về chuyện ân xá/đại xá. Năm vừa qua, đã đưa ra nghị quyết ban phép đại xá trong Năm Thánh Dành cho Linh Mục. Bắt đầu từ lễ Thánh Tâm Chúa năm 2009 và kết thúc ngày 11/6/2010. Nghị quyết chính thức ban hành ngày 12/5/2009.

Nghị quyết cho biết: ta được ơn đại xá/toàn xá vào nhiều dịp trong năm. Nhất là vào Thứ Năm đầu tháng và các ngày kết thúc Năm Thánh Dành Cho Linh Mục. Muốn được ơn này, giáo dân phải đến nhà thờ dự lễ và đọc kinh cầu nguyện cùng Chúa là Linh Mục Tối Cao Trường Tồn, để cầu cho các linh mục trong Giáo Hội. Lại cũng làm việc lành phúc đức, ngõ hầu Chúa thánh hoá đưa các ngài vào với Thánh Tâm Ngài.

Thông thường, điều kiện để được đại xá, là: phải Rưóc Chúa vào lòng. Tốt nhất là cùng một ngày. Phải lo xưng tội trước hoặc sau ngày đó. Và, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha.

Nếu vị cao niên/bệnh nhân nào, vì lý do gì đó, không thể ra khỏi nhà mà đi lễ, vẫn có thể được ân xá nếu vị ấy thực hiện 3 điều nêu trên, càng sớm càng tốt. Khi làm thế, hãy cầu xin Chúa thánh hoá các linh mục, đồng thời dâng hiến mọi nỗi đau đớn/bệnh tật của mình lên với Chúa, qua Đức Mẹ Maria, Nữ Vương các Thánh Tông Đồ, là được.

Bậc giáo dân, cũng được ơn tiểu xá nếu đọc năm lần kinh “Lạy Cha”, “Kính Mừng” và “Sáng Danh”, hoặc các kinh nào được Hội thánh chấp nhận để làm đẹp lòng Thánh Tâm Chúa, ngõ hầu cầu cho các linh mục giữ mình trong sạch, thánh hoá cuộc sống, là tốt.

Còn về câu: “Sao lại làm việc ấy vào các ngày Thứ Năm đầu tháng?”, thì câu trả lời, tốt nhất là: nên qui về trường hợp linh mục Dòng Cứu Chuộc và về Đức Giáo Hoàng Piô XI. Trong cuộc tĩnh tâm vào năm 1930, Lm Paschalis Schmid, SDS thấy là mình có ơn gọi làm việc gì đó ngõ hầu giải quyết tình trạng thiếu linh mục, trong Giáo Hội. Sau khi hội ý với các Giám mục, linh mục và một số vị khác, ngài đã quyết định nên dành ra một ngày đặc biệt trong tháng, để cầu nguyện cho các linh mục được thánh hoá và cầu cho ơn kêu gọi. Chỉ một thời gian ngắn, ý kiến này được nhiều người cổ võ, khắp thế giới.

Theo đơn xin của Lm Pancratius Pfeiffer, khi ấy là Bề Trên Tổng Quyền Dòng Đấng Cứu Chuộc, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã ban phép miệng chấp thuận cho thành lập “Ngày Cầu Cho Các Linh Mục”, kể từ đó. Và, Đức Thánh Cha quyết định lấy ngày Thứ Năm đầu tháng, cho việc này.

Sau đó, Đức Giáo Hoàng Piô XI lại đã khuyến khích con dân trong Đạo, hãy gia tăng cầu nguyện cho các linh mục. Qua Tông huấn ngài viết về thiên chức linh mục được mang tên Ad catholici sacerdotii (về Linh mục Công giáo), có những giòng sau đây: “Nhận thấy đây là việc phải làm, sau khi đã tham vấn Thánh Bộ Phụng Vụ, ta cũng nên sắp sửa một Thánh Lễ Ngoại Lịch, cho Thứ Năm, theo qui định Phụng Vụ “De Summo et Aeterno Iesu Christi Sacerdotio”, hầu làm đẹp lòng Chúa là Linh Mục Tối Cao Trường Tồn”. Đây là niềm an ủi và vui sướng cho Ta ban hành Thánh Lễ này, cùng với Tông Thư hôm nay”. (Mục #91)

Theo tinh thần của Tông Thư do Đức Thánh Cha ban, chúng ta cũng nên thực hiện công cuộc đoàn kết với toàn thể Hội thánh mà nguyện cầu cho các linh mục, nhất là vào các ngày Thứ Năm đầu tháng.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly, 21/02/2010, tr.10)


Về yêu đương, người bàn cũng viết thêm đôi dòng, nghe khá quen. Rày đã quên. Dòng ấy, nay vẫn chảy. Vẫn cuồn cuộn, như thế này:

“Yêu thương và Giận dữ, cả hai đều không giới hạn. Và, chọn lựa nào cũng quan trọng cả. Hãy chọn yêu thương để có được đời sống tươi đẹp. Rất đáng yêu. Và đáng nhớ. Hãy nhớ mãi điều này: Vật dụng, là để ta sử dụng. Còn, con người là để thương, để yêu.

Thế giới, nay nghĩ khác: con người là để sử dụng. Còn đồ vật mới dùng để thương yêu. Thành ra, dù ta tự đặt mình về phe nào. Cánh nào. Cũng hãy nên nhớ:

-Hãy thận trọng với ý nghĩ của mình, vì mình sẽ nói ý ấy ra, bằng lời nói.
-Hãy thận trọng về điều mình nói, vì mình sẽ phải biến nó, thành hiện thực.
-Hãy thận trọng về điều mình thực hiện, vì chính nó sẽ là thói quen.
-Hãy thận trọng với thói quen, vì nó sẽ trở thành cá tính.
-Hãy thận trọng với cá tính, vì nó sẽ quyết định số mệnh, của mình.”
(Trích lời phát biểu của Đức ĐạtLai Lạtma)

Thành thử, dù đó có là số mệnh, hoặc bản mệnh. Dù, bản mệnh mình có hung tướng hoặc cát
tướng đi nữa, hãy cứ thận trọng về thương yêu. Bởi, thương và yêu, là tất cả. Cả một đời. Của con người. Hãy yêu thương dài dài. Mãi mãi. Để rồi, ta lại sẽ nghe người nghệ sĩ lại vẫn hát:

“Sẽ hát, bài cho em
và ru em, yên giấc tối
ngày mai, khi mưa ngang lưng đồi
chờ em, anh nghe mùa thu tới.”
(Ngô Thụy Miên-bđd)

Vâng. Hãy cứ nghe. Và, cứ chờ. Rồi, cũng có mùa thu. Mùa tình tự. Yêu đương. Của mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cứ chờ
để nghe mùa thu tới.
Mùa yêu thương
của Đạo trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 15.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Chúc Thư Của Người Mẹ

Hoàng Thị Đáo Tiệp


Tham dự Thánh Lễ sáng thứ Bảy đầu tháng Ba của ngày Mùa Chay (6/3/2010) để kính Đức Mẹ xong, lòng dạt dào xúc cảm tôi gọi cho chị bạn. Chị hiện đang là bạn đọc của tôi trên Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ, nhưng chúng tôi vốn đã quen nhau từ lúc còn ở bên quê hương. …Quen trong một dịp cùng “khăn gói quả mướp” đi chấm thi tốt nghiệp phổ thông và hôm đó là ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau rồi chấm thi chung. Giờ ăn trưa tôi có đem theo lon guigoz cơm với mấy con tép rang. Chị thì cũng lon guigoz cơm với tép rang, nhưng còn có thêm một lon guigoz nữa đựng canh chua rau nhút nấu với tép( lon guigoz là cái lon bằng nhôm đựng sữa bột hiệu Guigoz mà các bà mẹ hay mua cho con trẻ bú. Sau 30 tháng Tư, lon guigoz được hầu hết công nhân viên chức “chiếu cố” để ngày ngày đựng thức ăn đi làm. Việc chúng tôi chẳng hẹn, lại “đồng điệu” cùng ăn tép vì lúc đó đồng lương không chỉ riêng nhà giáo mà nói chung công nhân viên chức “nghèo mướp” nên được ăn với tép cũng đã là “sang”). Chị hiếm hoi chỉ có mỗi một cô con gái và đưa nhau về sống với mẹ vì chồng phải đi cải tạo! Chị giàu tình người, giàu lòng nhân ái nên mới gặp mới quen nhưng thấy tôi ăn “khô hạn” thì thương, xẻ bớt canh chua rau nhút vào lon guigoz cho tôi lại còn tế nhị nói là canh chua bà cụ thân sinh nấu ngon lắm nên muốn tôi ăn thử…..

Tôi gọi chị để đề nghị một điều và hy vọng chị sẵn lòng giúp:
-Chị ơi em kính mời chị cùng viết bài cho báo Mẹ số tháng Năm nầy! Tháng Năm: tháng hoa Đức Mẹ và cũng là tháng có lễ “Mother s Day”cho đời làm mẹ của chúng mình nên đề tài em muốn viết là “Chúc Thư Của Người Mẹ”. Vâng , thưa chị là chúc thư “của người mẹ” chớ không chỉ là “của mẹ” thôi! Vì “của mẹ” thôi thì ý riêng em ,em viết cũng được; đằng nầy “của người mẹ” nên em thiết tha được tranh thủ thêm ý cuả chị với dăm ba chị em nữa! Em ...
Quả đúng chị sẵn lòng giúp thật! Tôi chưa dứt lời đã nghe tiếng chị reo vui bên đầu dây:
-Em nói cái điều nghe được lắm đó nghen cưng! Vì đấy chính là em tạo dịp cho các bà mẹ thầm lặng như chị vốn chẳng mấy ai biết tên nghe tiếng, lại được hân hạnh nói năng trên báo! Mà nói năng dưới hình thức viết chúc thư là được một công đôi việc nên chị thích lắm! Vì vừa thầm thỉ trao nhau kinh nghiệm cùng những trở trăn trong đời làm mẹ; lại vừa được nhắc bảo và nhắn nhủ cho con cái khát vọng yêu thương mình dành cho chúng để mong chúng được nên hay nên tốt mà sung sướng tấm thân! Bởi vậy, không những chị ủng hộ em hết mình, còn cám ơn em nữa! Em đúng là khôn ngoan và giàu khiêm hạ mới nghĩ ra được cái đề tài như thế để gọi mời nhau cùng cộng tác!. Cho nên chị thấy là phải khen thêm em một lần nữa đó cưng!

Mừng được chị hoan hỉ giúp nhưng xấu hổ vì bị chị khen ,tôi khẽ nói để chị hay:
- Bà chị ơi bà chị khen oan em lắm! Em không có dám nhận đâu! Ý đó đâu phải tự em nghĩ ra mà do Đức Mẹ ban cho, vì em viết phục vụ báo Mẹ và lại là số báo tháng hoa Mẹ nữa! Nói thật chị thương: ý đó em vừa mới được Đức Mẹ ban tức thời lúc đang tham dự Thánh Lễ sáng nay là Thánh Lễ đầu tháng kính Mẹ, nên bổn phận em là sốt sắng làm theo sự soi dẫn cuả Mẹ ,mà chị là người đầu tiên em gọi.

-Ý a hấp dẫn nhen cưng! Và hẳn là có liên quan đến chị, em mới mau mắn gọi chị trước tiên?

-Vâng, đúng thế chị ạ! Vì cảm từ việc mình được soi dẫn, em nghĩ ngay lập tức đến chị!


Tôi đáp thế, chị reo lên:
-Vậy thì cưng bật mí cái rụp coi! Chị đang nóng lòng muốn biết lắm đây!

- Vâng! Em cũng sẵn sàng đây! Nhưng, với điều kiện chị không có buồn em thì em mới dám!

-Em lo cái chuyện bò trắng răng nhen! Chị mà đi buồn em thì chị đâu có xứng đáng làm chị cuả em! Hơn nữa em đã nói là do cảm từ việc được Đức Mẹ soi dẫn! Thì em cảm thế nào cứ đơn thành và thẳng thắn cho chị biết là chị mang ơn em không hết nữa là !


Được chị xác quyết vậy, tôi tình thật kể chị nghe đầu đuôi sự việc ….
…Chả vì bước sang đầu tháng Ba tôi bị ốm nên có một số điện thư được các người thân quen gửi đến,tôi chưa đọc hết. Tối hôm qua(tức thứ Sáu 5/3/2010) tôi thấy trong người được khoẻ hẳn nên ngồi đến khuya lắc bên máy để lần lượt đọc hết các điện thư. Trong đó có điện thư của thầy Phan Huy Hiếu ở Đan Viện Thiên An, Huế. Thầy gửi tấm ảnh một bé gái khoảng 3 tháng tuổi mà hai con mắt đã không mở được suốt từ lúc mới sinh và kèm theo lời viết:

“Chị ơi tuần trước em có việc của Đan Viện nên có về quê, nhờ vậy mà em được tận mắt chứng kiến hoàn cảnh quá tội của gia đình anh Tình! Cả hai vợ chồng đều thất nghiệp, mà vì dỡ duyên nên phải cưới! Anh Tình không có nhà riêng nên cưới vợ về thì vẫn sống chung trong căn hộ nhỏ cuả mẹ mà anh là con cả! Mẹ anh có tới 6 con, mặc dầu đau yếu vẫn cố đi chạy chợ kiếm sống nuôi con! Cách đây gần 3 tháng vợ anh sinh được đứa con gái chưa kịp mừng, tuy khi sinh là tiền góp của xóm làng cho nữa, nhưng cái bệnh quái ác là bé không mở được mắt làm hai vợ chồng buồn vô cùng và bị lung lay đức tin nhất là vợ mới trở lại Công Giáo! Ước mong của hai vợ chồng anh Tình là con mình được nhìn thấy.Xin chị cầu nguyện cho, và cũng xin chị xem giúp được chi cho cháu bé với bố mẹ cháu thì chị giúp nhé! Tấm ảnh cuả bé là tự em đi nhờ người chụp để em gửi qua cho chị. Tiếc là họ chụp hơi bị mờ, mà vùng đó kiếm người chụp hình khó lắm vì phải đi xa 3 cây số mới có người chụp hình …..”

Ôi! Xem ảnh và đọc những lời thầy Hiếu viết, tôi chạnh lòng vô cùng!Và càng đọc càng xem tôi càng chạnh lòng khôn tả!Vì chuyện sinh ra mà không mở mắt được thì tôi có nghe nhưng chưa có thấy! Đây là lần đầu tôi thấy, lại hoàn cảnh cuả một gia đình đã quá nghèo còn thêm đủ thứ hoạn nạn…nên nếu tôi mà thế, biết đâu mình còn bị lung lay đức tin hơn cả họ nữa là! Cho nên dù đã sốt sắng cầu nguyện cho, tôi vẫn cứ bị bức xúc thế nào (nhất là việc “dỡ duyên” đã không dấm dúi phá thai như thói thường, mà dù thất nghiệp và chưa tự gầy dựng được chổ ở riêng vẫn lo tổ chức đám cưới … để chuẩn bị cho đứa bé sinh ra được đôi bên gia đình chấp nhận với luôn cả trong xứ ngoài làng cũng chấp nhận nữa… nên phải là đáng thương đáng thưởng lắm chớ! Đằng nầy bé sinh ra bị như thế, liệu rồi đây những cặp bị “dỡ duyên” khác có dám giữ cái thai và tổ chức lễ cưới chăng?!) Nỗi bức xúc theo tôi lên cả trên giường ngủ nên khi được thức giấc lúc 3 giờ sáng, tôi chỗi dậy ngay lập tức: thống thiết dâng chuỗi kinh Kính Lòng Thương Xót Chuá để cầu cho nữa! Rồi sáng ra tôi đi Lễ , nỗi bức xúc cũng lại theo đi và lúc nầy thì nó làm tôi cứ phải buồn muốn khóc thôi! Vì thấy khuôn mặt ai ai cũng đều có đôi mắt được mở ra ,lại còn trang điểm cho đôi con mắt mình thêm đẹp…. nên tôi cứ phải nghĩ đến khuôn mặt dị dạng cuả bé bị thiếu vắng đôi mắt mà càng xót cho bé, xót luôn cho mẹ của bé chắc là phải khóc suốt thôi! Tôi cũng hiểu nếu tôi là mẹ của bé thì dễ chi tôi có an bình và vui sống với cảnh ngày đêm thấy con gái mình như thế! Và vì cứ phải bị buồn muốn khóc nên lúc nghe đọc Phúc Âm thư về người cha nhân hậu, thì lời Chuá dạy “phải mở tiệc và ăn mừng” (Lc 15,32) vụt được giữ lại trong trí tôi, làm tôi cứ phải suy nghĩ vì xem như đây chính là lời Chuá dạy cho riêng mình trước sự việc. Mà suy nghĩ về lời nầy Chuá dạy là tôi chỉ có thấy mừng vui phấn chấn thôi, nên mọi bức xúc khổ lòng trong tôi cũng vụt được tan biến đi. Bởi ý trực tiếp của lời dạy là nói về sự vui: có vui mới có “mở tiêc và ăn mừng” nên tôi tin rồi đây mắt của bé sẽ được nhìn thấy. Lời dạy còn thiết tha giục giã tôi rằng “phải”: tức là tôi phải xông xáo hành động đề tạo cái niềm vui đó! Vậy thí tôi phải hành động thế nào đây, cho bé bị mù bẩm sinh nầy, vì tôi muốn bé được nhìn thấy lắm! Cho nên tôi hướng lên tượng Đức Mẹ ( vì tôi đang trong dãy băng ghế trước tượng Mẹ và hơn nữa hôm nay tôi đi Lễ sáng thứ Bảy đầu tháng kính Mẹ) xin Mẹ ban ý chỉ dạy cho mình làm.Thì chính lúc đó tôi được nhớ lập tức hai sự việc:

Việc trước tiên là việc Chuá Giêsu trong ngày sabbat tức ngày mà luật cuả người Do Thái cữ làm viêc xác, nhưng Chuá thì lại chạnh lòng thương một người mù từ lúc mới sinh nên đã chữa lành cho, và điều đó được Phúc Âm của Thánh Gioan ghi lại: “Đang khi Chúa Giêsu đi qua ,người thấy một người mù từ khi mới sinh .Các môn đệ hỏi người rằng: ‘thưa Thầy,ai đã phạm tội, hắn hay cha mẹ hắn khiến hắn mù từ khi mới sinh?” Chuá Giêsu đáp: “Không phải hắn cũng chẳng phải cha mẹ hắn đã phạm tội, nhưng để công việc cuả Thiên Chuá được tỏ ra nơi hắn. Bao lâu còn ban ngày,Thầy phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là sự sáng thế gian”. Nói xong Người nhổ xuống đất,lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn lên mắt người ấy và bảo: “ngươi hãy đến hồ Si-lô-e mà rửa” (chữ Si-lô-e có nghĩa là Người được sai đến). Hắn ra đi rửa, rồi trở lại thì trông thấy được” (Ga 9, 1-7 )

Việc kế đến là tôi nhớ mình có đọc thấy đâu đó câu chuyện kể về những người đi hành hương (hình như đến Lộ Đức thì phải?) vào một đêm nọ cùng quây quần trước tượng Đức Mẹ trong nhà thờ để cầu nguyện. Thì họ thấy có một bà mẹ với đứa con thơ được bà trùm kín trong chăn và bà cứ quỳ trước tượng Mẹ mà khóc! Bà khóc càng lúc càng nức nở nên có mấy người tiến lên an uỉ bà và xin bà đừng làm ồn vì mọi người đang cần sự yên lặng để cầu nguyện. Bà mới mở tung cái chăn đang trùm kín con ra cho mọi người xem . Ôi! Thì ra trên khuôn mặt cuả bé không có hai con mắt như mọi trẻ bình thường khác!Thế là mọi người cùng thổn thức và chung một lòng thiết tha cầu xin Đức Mẹ chữa lành cho đôi mắt của bé …..

Hai sự việc được nhớ ra để tôi thêm xác tín điều mình tin tưởng mắt của bé sẽ được nhìn thấy là có cơ sở chắc chắn ở tình Chuá yêu thương và Chuá quyền năng .Vấn đề là phải làm sao để việc của bé được Chúa “thấy”, tức là được chạm đến đôi mắt thương xót của Chuá? ( tôi tin Chuá đã có “thấy” rồi, nên mới cho xảy việc thầy Hiếu được Đan Viện sai về nơi đấy mấy hôm để phải bức xúc mà tin qua cho tôi! Còn tôi phải lúc ốm mới chưa xem chưa đọc tin thầy, vì nếu đã xem đã đọc thì rất có thể đến hôm nay tham dự Thánh Lễ thứ Bảy đầu tháng kính Đức Mẹ, nỗi bức xúc tôi được nguôi ngoai chớ không như thế!) Muốn vậy thì phải cùng nhau chung lòng chung sức yêu thương bé và nài xin qua sự chuyển cầu của Đức Mẹ để dâng lên Chuá, xin Chuá kíp gửi ân nhân đến cứu chữa cho bé .. .Mà tôi thì sẵn đang được viết bài hàng tháng trên báo Mẹ nên tôi cũng được lập tức thấy ra việc mình phải làm. Và thấy ra việc mình phải làm thì tôi cũng được hiểu lập tức trở lại lời Chuá dạy lúc nãy là: “ phải mở tiệc và ăn mừng”! Có nghĩa rằng một khi tôi xông xáo đưa việc của bé lên báo Mẹ thì coi như là “mở ra được tiệc thương xót bé” để mời gọi quý bạn đọc cùng tham dự, nên tiếp theo sẽ là “ăn mừng sự việc của những tấm lòng hảo tâm” sẵn sàng chịu tốn hao thời giờ và tiền của để cầu nguyện và tiếp tay trong việc chữa trị cho đôi mắt bé được nhìn thấy.

Tôi kể đến đây thì được nghe chị bạn nói xen vào:
-Cho nên em mới chọn đề tài phải viết là “chúc thư của người mẹ” bởi vì nó đang sẵn có được hai người mẹ viết rồi! Mà đó lại là hai người mẹ bị lâm vào cảnh quá đau khổ do sinh ra đứa con mắt không mở được, nên khát vọng yêu thương tột bậc của mẹ dành cho còn là chỉ mong làm sao con mình được nhìn thấy! Điều đó ý nghĩa lắm, vì để cho những người con sinh ra có hai con mắt được mở bình thường hãy biết quý trọng mắt mình mà luôn phải giữ gìn bảo vệ nó. Chớ đừng chê mắt mình không đủ to đủ đẹp để đi phẩu thuật nọ kia: vừa phí phạm đồng tiền vừa có khả năng làm giảm thọ mắt hoặc làm hại đôi con mắt của mình vĩnh viễn! Cũng như có mắt để cho nhìn thấy thì phải biết chọn điều hay điều tốt để làm và biết nhìn xa trông rộng để sống sao cho đời mình được nên hay nên tốt ,nở mặt mẹ cha ,vẻ vang dòng họ và hữu ích cho đời. Và em gọi chị để rủ chị cùng tham gia viết vì chị hiểu chắc là em nhớ việc chị hay có than với em chớ gì? Than rằng cô con gái yêu quý độc nhất của chị lúc sinh ra được Chúa cho mở hai con mắt vừa to vừa đen nhánh xinh đẹp vô cùng, mà lúc lấy chồng thì quái ác thay lại nhắm hết hai con mắt để lấy và còn bỏ luôn hết ngoài tai bao lời của cha mẹ khuyên! Vì thế con mới lấy phải người chồng ăn chơi đàng điếm, đã có vợ có con vẫn cứ lăng nhăng với hết cô nọ bà kia bỏ bê gia đình…làm con nhiều lúc đang đêm chờ chồng không thấy về là cứ muốn chạy vung ra đường cho xe cán! Hiện nay thì con hết còn thương yêu chồng nên không nghĩ đến chuyện tự tử nữa, mà muốn là phải ly dị! Bởi vậy con làm khổ cho đời con đã đành ,khổ lây cho đàn trẻ và khổ không biết cơ man nào mà nói cho tuổi già của anh chị chắc là đến lúc thở hơi cuối cùng vẫn chưa được yên vì con!

Chị nói thế rồi im lặng và tôi nghe như có tiếng khóc trong giọng nói ở mấy lời chị nói sau cùng! Tôi thỏ thẻ cùng chị:

-Bởi thế em mới xin là chị đừng có buồn em thì em mới dám!

-Em an tâm! Không đời nào chị buồn em mà còn cám ơn em là khác! Chỉ tại vì phải nhắc lại chuyện con nên chị thấy thương cho đời con và tủi lây cho đời mình vậy thôi! Còn sở dĩ chị nghẹn lời không nói tiếp vì chị vụt được thấy ra cái lỗi tầy đình của chị: điều mà suốt từ bao năm qua chị không hề thấy!Chớ nếu chị đã được thấy thì không chừng chị đã giúp con tự cứu vãn cho hạnh phúc của con rồi!


Ối!Mừng được nghe chị nói vậy, mà nói với giọng rắn rỏi vui nên tôi cũng đáp lời chị với giọng vui tươi hóm hỉnh:

- Nhất cho bà chị của em nhen! Vậy thì bà chị làm ơn nói lẹ lẹ giùm kẻo cái ý sáng suốt ấy nó bay biến đâu mất thì chúc thư của mình cũng bị mất bớt điểm nữa đó!

-Thì vâng chị xin rút cái kinh nghiệm xương máu của chị mà can đảm nói ra điều nầy với quý bà mẹ để mong đừng có bà mẹ nào giẫm phải vết chân của chị! Đó là cứ mỗi lần bị thấy bị nghe con than khổ về chồng thì chị hay trách đi trách lại con rằng:

“Mẹ đã chẳng có bảo trước cho con sao?! Chỉ cần con mở hai con mắt con ra mà nhìn mà xem mà dò thì con sẽ thấy nó là mẫu người không thể nào đem hạnh phúc đến cho vợ cho con! Nhưng con cứ nhắm hết hai con mắt lại để mà lấy nó cho bằng được vì quá yêu thương mù quáng mất rồi!”.


Cho nên tôi chỉ có làm con thêm bất mãn, thậm chí tuyệt vọng về chồng mà không còn thiết phấn đấu để bảo vệ và vun quén cho hạnh phúc gia đình! Và đấy là tôi cũng đã làm cho con rể thêm bất mãn về thành kiến của má vợ nên thấy có phấn đấu sửa lỗi cũng vô ích! Bởi vậy, lẽ ra khi việc hôn nhân của con một khi đã thành sự rồi, thì dù cho con rể con dâu có như thế nào: nhất định là mình phải luôn chấp nhận. Mình lấy tình yêu thương tha thứ để sửa lỗi cho con và bằng mọi cách vun quén ngày một thêm cho hạnh phúc lứa đôi của con .

Nói được chỉ có bằng ấy lời thì chị lại rơi vào im lặng, tôi cũng lặng im để chờ nghe chị nói tiếp, và đây chị nói:

-Đủ rồi nhen em! Thật không ngờ chị được sáng suốt để nói cái lời “nặng ký” đến vậy nên chị mãn nguyện lắm rồi em! Và từ nay chị cũng được thấy ra việc chị phải kíp làm để giúp con giành giật lại chút hạnh phúc hãy đang còn le lói chớ chưa tắt ngủm! Chị tin đây là ơn cuả Đức Mẹ soi sáng cho chị qua trung gian của em ,của thầy Hiếu và đặc biệt là của người mẹ trẻ đáng thương sinh ra đứa con mắt không mở được. Chị hứa sẽ luôn cầu nguyện không những cho mắt bé sớm được nhìn thấy mà còn cho cả những mẹ như chị dẫu được nhìn thấy mà cứ như mù nên hại mình ,hại lây đến con!

Chào tạm biệt chị, tôi lao vào công việc của một ngày làm ăn với bao phấn chấn. Rồi tôi lo liên lạc với thầy Hiếu để xin số điện thoại cùng điạ chỉ của cha xứ nơi gia đình bé cư ngụ. Được có rồi thì tôi lo gọi về cha xứ xin ngài cho biết thêm về bé, cũng như thưa trình với ngài vài ba ao ước tôi muốn xúc tiến trong việc an uỉ bé để mong được ngài chấp nhận và thương giúp ….

Hơn một tuần sau tôi lo gọi đến một chị bạn khác để mời chị cùng viết chúc thư. Tôi gọi chị vì chị cùng cảnh hiếm hoi chỉ có một con như chị bạn tôi đã xin ý hôm nọ, nhưng con của chị là con trai và trước đây trong những lần gọi thăm nhau chị hay có nói về nỗi buồn tức con mình : “Đã được Chuá cho có hai con mắt thì lấy vợ là phải mở to hai con mắt để dò tìm đâu đó rồi hãy lấy! Đằng nầy nhè con nhỏ ăn học dở dang ,việc làm chưa có và nhất là không nên nết chưa chi đã sẵn sàng trao thân để cho có chửa, mà con thì cứ nhắm mắt đòi phải rước cho bằng được về nhà! Thành thử chiều ý con đành phải cưới cho, chớ dâu con gì cái thứ không ra chi ấy mà thương …..”!

Mừng được chị nhận phôn . Nhưng, tôi chưa kịp thốt trọn lời chào thăm thì đã nghe chị báo một loạt tin buồn :

-Anh đã được Chúa gọi về cả nửa năm nay rồi em ơi! Còn chị thì bị cao máu suýt chết, may được cứu sống, nhưng một chân đang bị liệt, muốn đi chị phải đi với cái ghế giúp cho đi! Chị đang về ở với con cùng hai cháu nội vì mẹ chúng đã bỏ đi ở với thằng khác và đang sắp có con với hắn! Mà con chị lúc vui thì thôi, còn buồn là nó đay nghiến chị, đổ lỗi tại chị không ưa vợ nó nên là đầu mối của mọi chuyện làm cho vợ chồng nó cắn cấu nhau và lục đục suốt để phải đi đến tan vỡ! Cả đến hai thằng cháu nội chị hết dạ thương yêu, đứa được bảy tuổi , đứa mới năm tuổi mà có lúc cũng nói những lời làm khổ chị lắm em! Chúng nói là “bà nội già rồi ,bà nội tính xem còn sống được bao năm nữa mà bà nội ở ác với mẹ con dữ vậy?! Mẹ con nói tại hận bà nội nên mẹ mới bỏ ba con đi lấy người khác, để rồi đây bà nội chết đi là bà nội sẽ phải trả lẽ với Chuá về cái tội làm đổ vỡ hạnh phúc hôn nhân của con cáí cho đáng đời bà nội luôn!”. Chị biết là mẹ chúng xúi chúng nói như thế với chị, để muốn chúng thù ghét chị cũng như dằn mặt chị! Nhưng em ơi cảnh chị bây giờ ra đến nông nỗi nầy và cảnh con cháu mình đã thế, chị đâu còn lòng dạ nào để buồn trách con dâu hoặc tự bào chữa cho mình! Mà đúng thật là chị đang lo sẽ phải trả lẽ với Chuá việc mình không những đã làm hỏng hạnh phúc lứa đôi của con, mà còn đẩy con dâu vào thế phản bội chồng nó nữa ,em ơi!

Tôi hối hận việc mình bẵng đi có cả năm chưa gọi thăm chị nên trước bao tin buồn dồn dập chị báo, tôi ngậm ngùi thương cảm tận đáy lòng và chỉ biết ân cần nói những lời an uỉ dù đã quá muộn màng !Tôi tuyệt đối không dám hở môi tí nào việc mời chị viết chúc thư! Nhưng, cái ý đầy trăn trở trong lòng người mẹ qua các tin buồn chị báo, tôi thấy quả đấy là một nét son đáng quý để mình đem vào chúc thư.

Và rồi giữa lúc tôi đang suy nghĩ hãy nên gọi chị em nào nữa đây để mời viết tiếp chúc thư …thì tôi nhận được điện thư môt chị bạn vong niên. Chị có gửi kèm theo mấy tấm ảnh đông vui của đại gia đình chị gồm hai vợ chồng chị, với bốn cặp vợ chồng của con trai con gái chị, cùng đàn cháu nội cháu ngoại.. đến ăn tân gia ở ngôi nhà cậu con trai út mới tậu. Thấy cảnh sum họp đông vui của đại gia đình chị trong cái ngày mà ở đất Mỹ nầy không dễ gì quy tụ được đầy đủ các con các cháu. Vì cho dù là anh chị em ruột thịt đi nữa thì ít nhiều cũng có sự tị nhau trong việc kẻ tậu nhà mới, nhà to ,người nhà cũ, nhà nhỏ ….nên khó thể cùng đến với nhau để cùng ăn mừng tân gia cho nhau), tôi mail lập tức cho chị để chúc mừng và xin chị làm ơn bật mí cho cái bí quyết…

Vừa mới mail lúc đêm ,sáng ngủ dậy tôi mở máy vi tín đã thấy chị hồi âm:
“ Em ơi có gì đâu mà bí mật để phải bật mí về cái bí quyết! Thì đã có lời Đức Mẹ là người mẹ tốt lành trọn hảo có một không hai trên thế gian nầy đã dạy rành rành ra đấy! Dạy rằng; “Hễ Chúa bảo gì thì hãy làm theo” ( Ga 2, 5 ).Nên cứ làm theo Chúa dạy là bí quyết để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Bí quyết đó không khác gì hơn là luật vàng sau đây: “Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế” (Mt 7,12). Do đó hễ muốn được chồng, con trai, con gái, con dâu, con rể… thương yêu, kính trọng, ngọt ngào không xẵng giọng, không nặng lời lớn tiếng, cảm thông, cởi mở, thành thật thẳng thắn……với mình là mình phải thương yêu, kính trọng, ngọt ngào không xẵng giọng, không nặng lời lớn tiếng, cảm thông, cởi mở, thành thật, thẳng thắn …với chồng, con trai, con gái, con dâu, con rể….Và bí quyết đó còn là áp dụng những lời dạy khuyên cho gia đình sống đạo: “ Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẩn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chuá…. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh …. Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.” (Ep 5,21-26 và 6,1-4)

Còn biết bao là lời Chuá dạy nữa em! Mà chị thấy chỉ có cần áp dụng được những điều trên thôi là đời sống hôn nhân, gia đình luôn lúc nào cũng ấm êm, hạnh phúc và dẫu có đông con nhiều cháu thế nào thì trên dưới vẫn thuận hoà, chị ngã em nâng ..”

Phải nói đây là một hồi âm quá tuyệt! Còn đợi chờ đâu nữa, tôi hân hoan rước lấy và trang trọng mời vào …yên vị trong “Chúc Thư Của Người Mẹ” hãy đang còn khuyết chỗ.
*******************************
Thưa quý bạn đọc, xin kính quý bạn đọc được rõ:
Đây ảnh bé Thu với mẹ :





Còn đây là thư cuả vị Linh Mục chánh xứ:

“Xin mở rộng vòng tay
Linh mục Gioan Trần Minh Cần quản xứ Xuân Tình ,Giáo Phận Vinh ,tỉnh Hà tĩnh , Điện thoại: 09 86 720 139.
Xin gửi chị Đáo Tiệp một trường hợp éo le như sau ;
Tại giáo phận họ Tân Xuân (xóm Tân Xuân, xã Hỗ Độ, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh) thuộc xứ Xuân Tình có đôi vợ chồng mới cưới :
Anh Matheo Lê Khánh Tình và chị Maria Lê thị Hiền sinh đứa bé gái đầu lòng tên là Maria Lê thị Thu, bé sinh ngày 11 tháng 12 năm 2009 và sinh ra bị mù, nghĩa là không mở mắt. Sau đó cha mẹ đem đi viện Hà Nội, bác sĩ trả lời do bẩm sinh không mở mắt được. Tương lai ra sao?
Chị ôm con buồn cho tương lai cuả con .Họ chỉ hy vọng đến tuổi nào đó con họ có thể thay mắt được không? Xin quý vị ân nhân thương tình giúp đỡ .
Linh mục Gioan Cần
Xuân Tình, ngày 16 tháng 3 năm 2010


CÅ©ng xin thÆ°a:
Nếu quý bạn đọc liên lạc email thì đây là địa chỉ cuả cha Cần:
<lmtranminhcan@yahoo.com >
Nhưng vì ngài cao tuổi nên không thường xuyên mở email. Bởi vậy nếu thấy chậm hồi âm xin quý bạn đọc liên lạc hoặc thầy Hiếu ở địa chỉ: < placidehieu@yahoo.com>
hoặc sơ Hồng Hạnh ở địa chỉ:< tuvienluumy@yahoo.com >
California 4/4/2010


Hoàng Thị Đáo Tiệp
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 15.06.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

RIÊNG MỘT KHOẢNG CHIỀU

Trầm Thiên Thu



Buổi chiều, sau cơn mưa, tôi lặng đứng nhìn dòng người qua lại trên phố, chợt nghe lòng mình thánh thót những giọt ưu tư rỉ ra từ vết trầm bâng khuâng không tên. Rất lạ. Thứ cảm giác khó tả như những sợi nhỏ, dài, đan quyện nhau, chằng chịt như mạng nhện trong căn nhà bỏ hoang.

Con tim mặc vẻ bí ẩn. Con người đôi khi trở nên mâu thuẫn, một loại mâu-thuẫn-hợp-lý. Thật vậy, đôi khi ta không hiểu hết chính mình. Những câu hỏi tưởng chừng đơn giản mà thành như vấn nạn. Miệt mài đi tìm mình mà vẫn không gặp, chênh vênh một cõi về. Đam mê và hoài bão cứ giằng co đêm ngày.

Những năm gần đây, việc hiến xác cho khoa học trở nên phổ biến hơn, nhiều người đã tình nguyện làm việc này. Từ tháng 10/1997, tôi là người mang số thẻ 119. Từ khi thực hiện ý định này, tôi thấy mình có chút gì đó hữu ích hơn, giảm bớt ích kỷ đáng kể, cái TÔI trong tôi bớt “hung hãn” hơn xưa.

Đời người một khoảng trăm năm
Tưởng dài mà ngắn – Nhiều buồn, ít vui


Khi đã trưởng thành tâm lý, chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần suy tư về thân phận con người để khả dĩ nhận ra nó nhỏ nhoi và bọt bèo. Theo quy luật, ai cũng có một ngày hóa thành cát bụi, trở về nơi mình xuất xứ.

Nói vậy không có ý bi quan yếm thế, nhưng để nhận diện mà cố vươn lên và sống hữu ích hơn, không chỉ cho chính mình mà còn cho mọi người. Sống trong thời đại bùng nổ thông tin, không ai lại không biết ít nhiều về thế giới. Một trong những điều khiến chúng ta quan tâm chắc phải là sự bất công giữa con người với nhau, sự bạc đãi và lạm dụng trẻ em, chiến tranh,... Tất nhiên chỉ vì thiếu tình yêu thương đích thực.

Các nhà lãnh đạo đã và đang tìm mọi biện pháp hữu ích khả thi nhất để vãn hồi hòa bình, tìm hạnh phúc cho con người, xoa dịu vết thương cuộc đời vốn dĩ không ít đau khổ. Vì đời người ngắn ngủi nên cần phải làm “cái gì đó” cho đáng sống. Cần chau chuốt và nuôi dưỡng những tư tưởng vĩ đại, và chỉ cần một bề ngoài giản dị mà không quê mùa.

Những đám mây làm buổi chiều xuống thấp. Thấp dần. Đang chạm vào đêm. Khoảng chiều thật kỳ lạ. Ngôn từ chiều cao siêu như thầm nhắc tôi lời của Pithagore: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”.

Trầm Thiên Thu


CÁI MỐC THỜI GIAN

Bồ Câu Trắng


Cứ ở mỗi cuối năm hoặc khởi đầu của một năm mới , một thập niên mới , một kỷ nguyên mới , Tạp chí TIME có thói quen chọn một người nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại để làm một cái mốc cho thời gian .

Lần đầu tiên , năm 1927 , phi công HOA KỲ tên là Charles-Lindbergh đã được chọn làm người của năm .Viên phi công này là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thực hiện một chuyến bay liên tục từ NEWYORK sang PARIS .

Người của năm không phải chỉ là một đấng mày râu , mà ngay cả phái yếu cũng được chọn vào danh dự ấy .Trước kia thì có Nữ Hoàng Elizabeth đệ nhị, và năm 1986 – Tổng thống Aquinô của Phi Luật Tân cũng được chọn làm người của năm.

Việt Nam chúng ta lần đầu tiên ở tháng 12 năm 2004 , có hoa hậu Nguyễn Thị Huyền được vinh dự lọt vào số tuyển chọn của mười lăm thí sinh đứng đầu thế giới trong cuộc thi sắc đẹp lớn nhất hành tinh , tổ chức ở đảo Hải Nam Trung Quốc ,hơn 30 phóng viên VN đã đón cô trong ngày về tại sân bay Nội Bài để viết lời tường thuật quí báu của nàng hoa hậu 19 tuổi xuân xanh , có một câu nói thật đáng nhớ của cô: “ Trong tương lai VN có thể đạt kết quả tốt hơn, vì phụ nữ VN rất đẹp – đẹp cả tâm hồn và hình thức , nhất định hoa hậu chúng ta phải thật tự tin ,quan trọng nhất là phần trả lời ứng xử trước báo chí và ban giám khảo.”

Có nam giới , có nữ giới , có những người xây dựng hoà bình , mà cũng có những kẻ chỉ biết gây đau thương tang tóc cho nhân loại cũng được chọn làm người của năm …Thời gian sẽ vô nghĩa và trống rỗng nếu không được liên tục bằng những cái mốc của lịch sử . Con người cần có những cái ấy để nhìn lại quá khứ và dự phóng cho tương lai .
Bạn trẻ Công Giáo chúng ta sống giữa thế giới ,không thể không dựa vào những chiếc mốc ấy với đôi mắt bàng quang ,hoặc tệ hơn nữa bằng cái nhìn bi quan . Trong ĐỨC TIN , tất cả đều được nhìn bằng đôi mắt lạc quan , bởi vì chúng ta tin rằng THIÊN CHÚA là chủ của lịch sử , THIÊN CHÚA luôn có mặt trong lịch sử con người . Tin vào sự hiện diện và hướng dẫn ấy của THIÊN CHÚA , chúng ta nhìn vào những chiếc mốc thời gian như những dấu hiệu của hy-vọng . Ngay cả trong thất bại, rủi ro , tang tóc ,thương đau , người Kitô hữu vẫn luôn nhận ra những dấu chỉ của hy-vọng …

Tin tưởng ở sự hiện diện của THIÊN CHÚA trong từng giây phút của cuộc sống và lịch sử con người , cái mốc thời gian của chúng ta không phải là đơn vị của năm , của thập niên , mà là từng phút giây của hiện tại . Và người được chúng ta chọn cho từng phút giây đó phải là THIÊN CHÚA ,chủ của thời gian ,chủ của lịch sử.


Xin chọn NGÀI làm trung tâm điểm của cuộc sống , xin chọn NGÀI
làm sự sống , xin chọn NGÀI làm lý tưởng , xin chọn NGÀI làm cảm hứng , xin chọn NGÀI làm tất cả cho cuộc đời , xin chọn NGÀI trong từng phút giây của cuộc sống.

Bồ Câu Trắng



ĐẰNG SAU NHỮNG BỨC RÈM

Vũ Thủy


. . .Năm ấy tôi đang học lớp 8, tự nhiên việc cầu cơ trở thành một mốt thời thượng. Mấy anh lớn cứ đợi trời tối sụp xuống lại rủ nhau vác bàn cơ đi ra bãi tha ma trống ở sát bìa rừng cao su phía sau vườn nhà tôi. Bọn nhóc chúng tôi không dám đi ban đêm, thường tìm một bụi chuối cuối vườn nhà ai đó để cầu cơ vào lúc giữa trưa. Tôi thì cho rằng cầu cơ chỉ là chuyện lừa bịp hoặc là việc ma qủy làm mà thôi.

Một buổi trưa tan học về, chúng tôi gồm 11 đứa con gái, không đứa nào về ngay nhà ăn cơm mà tụ họp tại nhà Ngọc Nguyệt để cầu cơ. Hôm ấy ba má nó đi vắng cả ngày thế là bọn con gái chúng tôi tha hồ "quậy". Nguyệt kéo bọn tôi ra sau vườn chỉ bụi chuối mà nhà nó hay đổ rác, đưa ngón tay trỏ lên môi suỵt và khẽ nói ngồi ở đấy cầu cơ là linh nghiệm nhất.

Tuyết Nhung, đứa con gái nhỏ bé nhất trong bọn, tài lanh đòi làm người cầm cơ, đứng im cho Tố Hoa cột cái khăn quàng đỏ để bịt kín hai mắt lại. Sau khi đã cầm chắc nhỏ Nhung sẽ không nhìn thấy gì qua cái khăn màu đỏ ấy, mấy đứa hè nhau kéo nhỏ Nhung ngồi xệp xuống trên đôi dép nhựa, bó gối trước bàn cơ và gục đầu xuống trên hai đầu gối. Xong xuôi, tụi nó cùng nhau đọc câu thần chú chẳng biết học được từ đâu, tôi chỉ nghe chúng nó đọc líu nhíu cái gì mà:

". . .Hồn ở bờ sông bờ suối
Hồn ở bụi chuối bụi tre. . ."


Đọc mãi chẳng thấy suy suyển gì, tụi nó bàn cãi một hồi rồi đổ cho là tại tôi đeo thánh giá nên hồn không dám hiện lên. Tụi nó nhất quyết đuổi tôi đi chỗ khác cho chúng cầu hồn, tôi đi ra xa khỏi bụi chuối mà miệng thì vẫn cười diễu cợt mấy đứa bạn tin dị đoan.

Một mình tôi đứng vơ vẩn bên mấy cây vông, bứt bứt lá vông vò vò trong tay, mắt lơ đãng nhìn những đám mây trắng trông như những con cừu mập ú phía trên nóc nhà thờ Tin Lành ở đầu ngõ. Xa xa có tiếng gà eo óc gáy trưa, nắng ngà ngà như ru mấy mái tranh thấp lè tè vào giấc ngủ trưa. Chợt tôi nghe lũ bạn reo lên:

- Giáng rồi. . . giáng rồi. . .

Tôi không sao cưỡng lại tính hiếu kỳ, rón rén quay trở lại bụi chuối cuối vườn, mấy đứa bạn mải nhìn bàn cơ nên chẳng đứa nào để ý đến sự có mặt của tôi.

Tôi thấy con cơ đang di động chập chững trên bàn cơ, thầm nghĩ có lẽ nhỏ Nhung đang điều khiển con cơ chăng? Lòng tôi bán tín bán nghi nhưng con cơ đang di động thiệt! Ngón tay trỏ của nhỏ Nhung dí trên một mẩu gỗ hình trái tim, không có vẻ gì là đang hoạt động. Nghe đâu con cơ này được người ta khoét từ quan tài của một trinh nữ. Lũ bạn tôi chăm chú nhìn vào các ký tự mà con cơ đáp tới rồi lẩm nhẩm ghép lại thành chữ. Sau một hồi tôi hiểu ra rằng lũ bạn tôi muốn biết ai là người đã ăn cắp đôi bông tai của con Tố Hoa. Và bây giờ chúng đã tìm được đáp án, tôi rất buồn vì câu trả lời là: "Thanh Hằng lấy đôi bông tai". Tôi có chút gì tội nghiệp cho nhỏ Hằng, nó là một đứa con gái có khuôn mặt xấu xí nhất trong bọn con gái chúng tôi lại còn nhút nhát nữa. Quay sang phía con Nhung lúc đó đang đứng phủi phủi quần áo, trong khi mấy đứa khác gỡ cái khăn quàng ra khỏi mắt nó, tôi thấy cặp mắt con Nhung đỏ ngầu như người vừa trải qua giấc ngủ dài. Cặp mắt nhỏ Nhung ngơ ngơ ngác ngác như bị ai hớp hồn, đúng là có bàn tay ma quỷ làm thiệt rồi. Tôi buồn rầu bảo lũ bạn:

- Tụi bay có chắc là cầu cơ thì biết được sự thật không? Nếu như không đúng thì mình nghi oan cho nhỏ Hằng đó!

Rồi tôi lên tiếng trách con Tố Hoa:
- Tại sao mày lại bày ra chuyện này giữa đám đông bạn bè? Nếu mày muốn biết thì sao không cầu cơ một mình đi?

Con Tố Hoa còn ra vẻ độ lượng:
- Tao chỉ cần biết đứa nào lấy chứ tao không có đòi lại đâu!

Tôi nói tiếp:
- Nếu như hôm nay cơ trả lời người lấy đôi bông tai của mày là tao hoặc là một trong những đứa có mặt ở đây thì sao?
- Tao không bao giờ nghi cho mày đâu!


Nhưng tôi vẫn không chấp nhận, tôi gạn hỏi nó tại sao không nghi ngờ tôi mà lại nghi cho nhỏ Hằng thì nó kéo tôi lại gần và thì thào vào tai tôi:

- Hồi năm lớp sáu tụi tao đã thử mày rồi! Lúc đó con Túy Phượng thấy giờ ra chơi mày hay ngồi trong lớp một mình, nó nghi mày ăn cắp tiền, ăn cắp bút. Nó kẹp 20 đồng trong tập, nó để cạnh bên mày. Khi vào lớp thấy còn nguyên nên tụi tao biết mày không ăn cắp.

- Trời đất! - Tôi trợn mắt nhìn con Tố Hoa:
- Vậy mà hai năm rồi bây giờ mày mới cho tao hay. . . tụi bay thiệt là. . .!


Khi hồi tôi học lớp sáu, nhà tôi nghèo lắm. Ba tôi lên thành phố làm công nhân, má tôi đạp xe đi khắp các chợ lẻ để bán dầu gió. Mấy anh chị em tôi ở nhà hợp lực nhau làm rẫy. Mỗi sáng tôi đi bộ hơn cây số vào rẫy, cố hết sức làm công việc cho kịp trời đứng bóng. Sau đó vội vã về nhà tắm rửa, ăn qua quít mấy miếng cơm vào bụng cho đỡ đói rồi lại đi bộ hơn ba cây số đến trường. Quãng đường từ nhà đến trường tôi thường lẩm nhẩm học bài cho 2 tiết đầu.

Trong đầu tôi lờ mờ nhớ ra có một hôm tôi đang ngồi trong lớp học bài cho 2 tiết sau, đó là lúc bạn bè tôi chạy nhảy hò hét ngoài sân. Tôi để mặc ngoài
tai những tiếng vui đùa cám dỗ đó, chú tâm vào tập vở mình. Chợt tôi nhìn sang bên cạnh thấy một cuốn tập của ai đó ló ra một tờ giấy bạc màu xanh, vốn không thích để sách vở lộn xộn trong khi học tôi đẩy nó ra xa một chút rồi lại chúi đầu vào bài học. . .

Tôi cố thanh minh với con Tố Hoa:
- Lúc đó tao học bài chớ bộ!
Rồi bỗng nhiên mặt tôi đỏ rần lên khi nghĩ lại hồi đó tụi bạn đã nghi cho mình ăn cắp, thật là xấu hổ. Tôi tủi thân đến ứa nước mắt, con Tố Hoa đứng bên cạnh vẻ hối lỗi, nó nói lí nhí:
- Tụi tao cũng biết lỗi nhiều rồi. . .!
Hèn chi từ đó cho tới độ này tôi thấy tụi bạn đối xử với tôi rất tốt, tụi nó thường hay giúp đỡ và nhường nhịn tôi. Tôi bảo con Tố Hoa:
- Tao muốn ngày mai mày làm bộ nói với tụi nó là đã tìm thấy bông tai rồi.
Đừng cho nhỏ Hằng biết gì về chuyện này nha!


Nhỏ Hoa gật đầu ,từ nào tới giờ tôi với nó là một cặp bài trùng, nó vẫn thường hay làm theo ý tôi. Mà nhỏ Hoa tìm thấy đôi bông tai thiệt! Sáng hôm sau, nó đến lớp rất sớm để khoe cho từng đứa một trong bọn con gái thấy đôi bông tai đang đeo trên người nó. . .

Tôi trở về thực tại với một cảm giác ân hận không sao tả nổi, một cảm giác như bọn con Túy Phượng và Tố Hoa năm xưa.

Tôi đã nghi oan cho người phụ nữ vừa ra khỏi cửa hàng quần áo của chị em tôi. Chúng tôi bán hàng thường gặp những khách hàng thừa lúc đông người thì chôm chỉa, hai chị em phải thay phiên đứa bán đứa ngó chừng. Ban nãy cửa hàng đông khách, trong số đó có hai người phụ nữ xách giỏ đùm đề vẻ nghèo khổ đứng sát vào quầy hàng phía mặt tiền. Người phụ nữ trẻ lựa hàng trong khi người lớn tuổi hơn đứng dường như dính vào hàng hoá bày trên quầy, nét mặt bà ta tai tái, lấm lét khiến tôi nghi họ định giở trò. Nhưng vì không có bằng cớ nên tôi không thể vạch mặt họ được. Tôi chỉ còn cách nhìn chằm chằm vào cánh tay đang dấu dưới cái nón lá bà ta úp trên mặt quầy hàng. Người phụ nữ vẻ mặt càng lúc càng xám ngoét, tôi càng nghi ngờ bà ta hơn. Tôi cũng căng thẳng vì trước giờ tôi không dám xét giỏ của khách hàng như một số người từng làm. Cuối cùng, người trẻ tuổi cũng lựa xong và trả tiền cho đứa em gái tôi đang đứng phía trong quầy. Hai chị em họ bước ra khỏi hàng, tôi biết chắc người phụ nữ kia đã không sao lấy được gì dưới cặp mắt soi mói của tôi. Tôi nhìn theo họ đi khá xa... Đột nhiên, cái sự ghét người định rình ăn cắp trong lòng tôi vụt chạy tọt lên tới cổ, cổ họng tôi nghẹn lại. Cánh tay phải của người phụ nữ ấy đong đưa và được cái nón lá che đậy một cách lỏng lẻo, đó là một cánh tay dị dạng. Nó ngắn hơn cánh tay trái khoảng hai tấc, thoáng trong giây phút ấy tôi hiểu ra tất cả. Tôi hết sức hối hận và nhớ lại cái ngày nhỏ Tố Hoa bạn tôi đi cầu cơ kiếm bông tai. . .

Miệng tôi lẩm bẩm lời xin lỗi Chúa và xin lỗi người phụ nữ đáng thương. Tôi rất muốn làm gì đó để chuộc lại lỗi lầm nhưng tôi đã không có cơ hội như tụi bạn tôi ngày xưa. Người phụ nữ ấy gần như chạy trốn khỏi cặp mắt soi mói của tôi, tôi cũng không thể đuổi theo người phụ nữ ấy để nói lời xin lỗi.

Vũ Thủ
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 03.07.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

CÂU LẠC BỘ
SÁNG TÁC THƠ – VĂN CÔNG GIÁO











15 tháng 6 năm 2010


Kính thưa Quí Linh mục, Quí Tu sĩ nam nữ, Quí anh chị em Vườn Ô Liu và Quí độc giả kính mến.

Tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn cuộc đời đã ban cho chúng con những điều tốt đẹp ngắm nhìn một tạo vật chúng con cảm nghiệm thấy tình yêu Thiên Chúa thật bao la, chúng con ngất ngây, đắm chìm trong ân sủng của Ngài. Chúng con tri ân, cảm tạ, tôn vinh tình yêu Thiên Chúa đến muôn muôn đời.
Trong tâm tình khiêm tốn tạ ơn Chúa và quyết tâm phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân bằng chính ngòi bút của mình. Chúng con luôn cất lời cao rao Tình Yêu Chúa:

“Chúc tụng Chúa đi hồn tôi hỡi
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.”

(TV 102)

Nguyện xin Chúa, Mẹ Maria, và Thánh cả Giuse chúc lành và tuôn đổ muôn Hồng Ân xuống cho TRANG VĂN 08 nhỏ bé này của chúng con.

Câu Lạc Bộ Sáng Tác Thơ – Văn Công Giáo
Đồng Xanh Thơ Sài – Gòn


Kính dâng lên Chúa, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse. Cùng kính gởi đến Qui Linh mục, Quí Tu sĩ nam nữ, Quí anh chị em Vườn Ô Liu và Quí độc giả một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả:

Tác phẩm


Thinh Lặng Bút Chì Đen
Thánh Phaolô – Tông Đồ Của Mọi Người Trầm Thiên Thu
Kiếp Nhân Sinh Đức Yên
Nếu Anh Còn Trẻ Như Năm Cũ Trần Ngọc Mười Hai
Tu Là Cội Phúc Hoàng Thị Đáo Tiệp
Không Còn Mẹ Bồ Câu Trắng
Chúng Ta Có Trở Nên Tốt Mà Không Có….. Trần Hữu Thuần


Kính thưa Quí Linh mục, Quí Tu sĩ nam nữ, Quí anh chị em Vườn Ô Liu và Quí độc giả kính mến.

Đồng Xanh Thơ Sài Gòn mỗi tháng phát hành 2 kỳ vào ngày 1 và 15 hằng tháng. Rất mong nhận được sự ưu ái quan tâm của quí vị, đóng góp ý kiến xây dựng cho Câu Lạc Bộ Sáng Tác Thơ – Văn Công Giáo mỗi ngày được phát triển tốt đẹp theo đường hướng của Giáo Hội, cùng đóng góp bài vở cho TRANG VĂN của chúng ta ngày càng thêm phong phú, các bài văn xuôi của quí vị mang tâm tình ngợi khen Thiên Chúa, diễn tả Tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống, sáng Tình Chúa, đậm tình người đều được Câu Lạc Bộ trân trọng đón nhận.

Bài vở xin quí vị gởi về trước ngày 12 để phát hành số ngày 15 và trước ngày 28 để phát hành số ngày 1 tháng tới. Các bài được chọn sẽ đăng trên trang Đồng Xanh Thơ Sài Gòn của website www.dunglac.org và www.tamlinhvaodoi.net và được gởi đến các điện chỉ mail của các tác giả và của các độc giả.


Bài vở xin quí vị gởi về:

Hoàng Thi Ca.
Email: dxtsaigon@gmail.com
Chân thành cám ơn quí vị


THINH LẶNG

Bút Chì Đen



Thiên Chúa, Người thầm lặng, tất cả những gì có giá trị trong
thế giới đều chứa đầy thinh lặng.” E.Mounier
Bạn có bao giờ tự hỏi mình rằng: Tại sao bản nhạc lại phải có dấu lặng không?

Nếu một bản nhạc không có dấu lặng, bạn sẽ chẳng bao giờ nghe được tiếng vọng của thanh âm, và những ngân nag của một giai điệu du dương. Cũng vậy, bạn có bao giờ đọc một bài văn không hề có dấu phẩy? Chắc bạn sẽ đứt hơi, hoặc bạn sẽ chẳng thể hiểu được trọn vẹn bài văn ấy.

Những khỏang lặng mang nhiều giá trị hơn bạn tưởng.

Bạn có bao giờ bị đau Amiđan không? Nếu bạn là một người bị đau Amiđan, hẳn nhiên bạn sẽ có ít nhất một lần trong đời có cơ hội dễ dàng nhất để được thinh lặng.

Thinh lặng khác với im lặng. Bạn có thể im lặng bởi bạn không thèm nói. Bạn có thể im lặng vì bạn đang tức giận đến tột độ, hoặc đau khổ đến nỗi không thể thốt nên lời. Nhưng thực ra, ngay lúc bạn đang im lặng đó lại là lúc bạn đang “nói” nhiều nhất.

Thinh lặng là một trạng thái hoàn toàn khác. Thinh lặng là khi mặt hồ tâm hồn của bạn không hề gợn sóng. Và thinh lặng là khi bạn đang lắng nghe.

Bạn thinh lặng khi bạn đắm mình trong một không gian bình an, tĩnh tại. Là khi hồn bạn chỉ còn âm vang với Lời Chúa.

Thinh lặng là một nghệ thuật đòi hỏi nhiều điều.

• Bạn phải dũng cảm để có thể mỉm cười tha thứ cho một người đã làm tổn thương đến bạn bằng những hành động quá đáng và những lời nói vô liêm sỉ.
• Bạn phải can đảm để không trả đũa một lời nguyền rủa, không nêu lên một khuyết điểm trong một cuộc đối thoại, không đòi hỏi quyền ưu tiên.
• Bạn phải kiên nhẫn tập cho hòn mình không bị ảnh hưởng bởi những con sóng ồ ạt của cuộc đời.
• Bạn phải thành thật nhìn thẳng vào tận đáy sâu của tâm hồn bạn, để vớt ra khỏi đó bởi những rong rêu của ích kỷ, của ghen tương, và cả những tham sân si nữa.
• Bạn phải biết tìm kiếm cho mình sự thinh lặng giữa cuộc đời náo nhiệt, nhìn vào đời mình, nhìn vào sự sống.
• Bạn phải biết tách mình ra khỏi sự lệ thuộc của những người khác để được thinh lặng mà hiện diện cùng Đấng Tối Cao. Và để nghe lời Chân Lý từ trong thinh lặng.
•
Khi chúng ta tự nói về mình, chúng ta không ở trong thinh lặng. Lúc lặp lại những Lời Chúa gợi lên trong lòng ta, ta hoàn toàn thinh lặng. Thinh lặng không phải là ly thoát, mà tập trung con người ta về Thiên Chúa.

Cyrano de Bergerac nói rằng: “Rất nhiều người ăn nói dễ dàng chỉ vì họ không im lặng được.” Bạn không chỉ có thể im lặng mà còn có thể thinh lặng.

Rồi sẽ tới giờ phút thinh lặng của Tử Thần. Bạn sẽ thinh lặng trước khi giờ phút ấy đến chứ

Bút Chì Đen

Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch
THÁNH PHAOLÔ – TÔNG ĐỒ CỦA MỌI NGƯỜI

Tác giả Ernest O. Hauser
Trầm Thiên Thu chuyển ngữ


Nếu không nhờ con người mạnh mẽ, thông minh và có ảnh hưởng rộng lớn này thì niềm tin Kitô giáo có thể vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ hẹp tại Do thái.

Từ Jerusalem đến Damascus, sau 3 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập giá, một thanh niên Do thái ở Tarsus tên Saolê bị ngã ngựa vì một thị kiến ấn tượng. Tiếng Chúa Giêsu gọi: “Saolê! Tại sao anh tìm bắt tôi?”. Bị mù vì thị kiến, thanh niên này phải có người dẫn vào thành phố. Chưa đầy 3 ngày, thanh niên này bình phục và trở nên một thụ tạo mới – một người được tuyển chọn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ sự thay đổi lớn trong tâm hồn, một trong các nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Kitô giáo đã trở nên một người có đức tin. Chàng đã bỏ tên Do thái để thay tên Latin là Phaolô. Với tư cách là Tông đồ của dân ngoại, Phaolô được sai đi truyền giáo ở Địa trung hải. Ông chuyển Kitô giáo từ một giáo phái nhỏ Do thái thành một tôn giáo có tầm cỡ thế giới. Khi thuyết giảng và thư từ, Phaolô đã có hệ tư tưởng mà cho đến nay vẫn là nền tảng của việc giáo huấn Kitô giáo.

Ngoài các thư chúng ta có, trong sách Công vụ Tông đồ là nhật ký của bạn bè, thánh Luca – thầy thuốc và tác giả Phúc âm thứ ba. Từ các nguồn đó nổi bật một đời sống có nhiều khủng hoảng, quyết định nhanh chóng, lối thoát nhỏ hẹp, những dịp gặp gỡ, và những bùng nổ rải rác tạo nên câu chuyện phiêu lưu kỳ thú.

Thánh Phaolô sinh khoảng năm 5 tại Tarsus, Tiểu Á, ngày nay là thành phố tĩnh lặng ở Thổ nhĩ kỳ, nhiều người ở đây đã trở nên công dân của Đế quốc Rôma.

Khi còn nhỏ, Saolê học kinh doanh, có thể vì người cha là người buôn vải. Nhưng Saolê lại có tài lãnh đạo. Hơn 10 tuổi, Saolê đến Jerusalem học với thầy Gamaliel. Trong đền thờ chật người, lần đầu Saolê nghe nói đến Đức Kitô rao giảng ở Galilê. Dù chưa hề gặp Chúa Giêsu, “tiếng gọi” kia vẫn làm ông thay đổi. Ông đã bách hại Giáo hội sơ khai bằng cách hành hạ các tín hữu cho đến chết, trói và tống ngục cả đàn ông lẫn phụ nữ. Người đầu tiên bị Phaolô thủ tiêu là thánh Stêphanô, bị ném đá đến chết trước mặt người Pharisiêu. Vô tri bất mộ. Nhưng rồi Phaolô đã nhận là mình được Thiên Chúa thương đặc biệt. Phaolô đã tin tưởng, kiên trì, tự nhận mình yếu đuối, và ơn tha thứ tuôn đổ trên ông. Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm”. Nhưng nhiệm vụ lịch sử của Phaolô là định mệnh không chọn một người khá hơn. Là dân biệt phái, Phaolô đã trích Cựu ước khoảng 200 lần trong các thư gởi các Giáo đoàn. Là người Rôma, Phaolô đã đi khắp Đế quốc, nói 3 ngôn ngữ: tiếng Aram, tiếng Do thái và tiếng Hy lạp, đồng thời còn thông thạo tiếng Latin nữa.

Với tài năng như vậy, Phaolô khả dĩ tự biến thành “mọi sự cho mọi người” – Do thái đối với người Do thái, Rôma đối với người Rôma, ngụy biện đối với người ngụy biện, chân chất đối với người chân chất. Trổi vượt, khôn ngoan và hòa đồng, Phaolô còn là người rất nhân bản, dám tin rằng mọi người đều bình đẳng dù sống ở thời kỳ phân biệt giai cấp.

Hành trình tông đồ của thánh Phaolô đã đưa ngài tới những miền đất lạ, rảo bước khắp Tiểu Á, đến đảo Cyprus để “thả lưới”, vượt sang Âu châu để rửa tội cho những người ở Macedonia. Ngài đến đâu cũng gặp thuận lợi và được chấp nhận như một người Do thái. Chỉ khi đến với dân ngoại, thánh Phaolô mới gặp sự tức giận của người Do thái. Các tư tế cho rằng nam giới phải chịu cắt bì mới được cứu độ, vì luật đã ghi như vậy. Nhưng với tư cách một nhà truyền giáo, thánh Phaolô yêu cầu mỗi Kitô hữu phải bỏ luật Môi-sê, nếu không Kitô giáo không bao giờ là tôn giáo của mọi người, mà vẫn chỉ là sự thay đổi của Do thái giáo: Đức tin mới là vấn đề chứ không phải lề luật theo nghĩa hạn hẹp của nó. Từ đó phân chia thành Công giáo và Do thái giáo.

Không hiểu bằng cách nào mà thánh Phaolô “thương lượng” được để có thể đi qua vùng Cilician Gates, nơi có nhiều bọn thảo khấu ẩn nấp trên các vách đá cheo leo và các thác nước hiểm trở như thế. Ngài thường đi bộ, nhiều đêm phải ở lại trong hang động ẩm ướt, gió lộng, tuyết phủ, mưa bão liên tiếp. Chỉ một mục đích duy nhất khiến ngài miệt mài hành trình tông đồ là “tận hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu Kitô”.

Ngài vẫn mưu sinh khi có thể, bằng cách làm vải lều – nghề cũ của ngài. Chẳng hạn ở Côrintô, thành phố trù phú của người Hy lạp, ngài làm chung với vợ chồng người Ý. Cơ sở phát triển tốt. Mọi tầng lớp dân chúng đều ghé vào mua hoặc tham quan và trò chuyện. Tính cách và sự duyên dáng của ngài đã gây ấn tượng với khách thập phương: Một cộng đoàn mới.

Nhiều người ngoại giáo gia nhập đạo. Thánh Phaolô khuyên họ đừng nóng giận, xảo trá, nguyền rủa hoặc mỉa mai người khác. Thời gian ngài ở Côrintô khoảng năm 51 (sau CN), cũng là thời điểm ngài viết các thư gởi các giáo đoàn và các sứ đồ. Kho tàng văn chương độc nhất vô nhị này là một phần trong Tân ước ngày nay, được xuất bản cùng với các Phúc âm. Được viết bằng tiếng Hy lạp cho các giáo đoàn sơ khai và các cá nhân, các thư của ngài viết không có ý tạo nên công việc đơn lẻ. Kết hợp với nhau, các thư có cấu trúc chặt chẽ về tư ưởng tôn giáo, làm cho thánh Phaolô trở nên thần học gia đầu tiên của Kitô giáo. Ngài còn là học giả uyên bác, tử tế, lịch thiệp. Những điều ngài viết ra là những trân châu ngọc bảo.

Thư gởi giáo đoàn Rôma là thư dài nhất và là kiệt tác của thánh Phaolô. Các nền tảng như ân sủng, công trạng và ý muốn tự do, bắt đầu bằng khả năng và chính xác, đó là khởi nguồn cho các thần học gia Kitô giáo. Quan niệm chính của thánh Phaolô là Ơn Cứu Độ: Loài người sống trong tội cho đến khi Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Giêsu đến cứu thoát. Nhờ cuộc sống và cái chết trên Thập giá, Đức Giêsu đã cứu độ nhân loại. Mọi người thực hiện Ơn Cứu Độ của chính mình bằng ân sủng và đức tin. Thánh Phaolô ẩn dụ bằng việc cởi bỏ “con người cũ” có thể ám chỉ việc thay đổi tâm tính của ngài sau biến cố ở Damascus. “Con người mới” sống trong Đức Kitô và “cái chết không còn thống trị trên Ngài”. Trước đây cô đơn và bị bỏ rơi, nhưng thánh Phaolô đã tìm thấy nguồn vui nơi chính Đức Kitô và anh em, và hân hoan tuyên bố vào cuối thời gian rằng chúng ta được kết hợp với Chúa trong vinh quang của Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài trực diện.

Nhiệm vụ của thánh Phaolô gọi ngài đến một nơi khác là Jerusalem, dù ngà định đi Rôma. Ngài đến Palestine với điềm chẳng lành. Sự thù ghét manh nha trong giới lãnh đạo Do thái. Khi thánh Phaolô vào đền thờ, có tiếng gọi giật ngược. Ngài bị kết án tử vì tội đưa dân ngoại vào đền thờ. Họ kéo ngài ra khỏi đền thờ và hành hạ gần chết. Một binh sĩ Rôma kịp xông vào cùng với vài binh sĩ khác giải cứu thánh Phaolô. Rồi sau đó ngài lại bị tống ngục ở Rôma. Nhiều học giả cận đại cho rằng thánh Phaolô bị kết án và được tha bổng. Các tác giả viết sách Kitô giáo cho biết thánh Phaolô đến tận Tây ban nha và Á châu. Đó là thời gian chống Kitô giáo dữ dội. Khoảng năm 60, thánh Phaolô bị bắt lần nữa và bị giải về Rôma. Tương truyền chính vua Nero, người chống Kitô giáo kịch liệt, đã ngồi ghế thẩm phán kết án thánh Phaolô bị xử trảm tại Hang Khuynh Diệp gần Rôma. Người ta nói rằng thủ cấp của thánh Phaolô rơi xuống và nảy lên 3 lần trên đất tạo thành 3 giếng nước. Cách đó khoảng 2 dặm là Đại Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành được xây dựng chỉ sau khi ngài tử đạo một thời gian ngắn.

Đức Giêsu đã tạo lập một niềm tin mới, chuyển hóa một Saolê thành một Phaolô hiên ngang đem niềm tin đó tới mọi nơi trên thế giới để có một đạo Công giáo như ngày nay.


Trầm Thiên Thu chuyển ngữ


KIẾP NHÂN SINH

Đức Yên



Nhân loại 6 tỷ người, chỉ trừ một số rất nhỏ những phi hành gia đi vào vũ trụ, hoặc du khách trên các chuyến bay dài ngắn - gọi là cách xa nhưng cũng trong bầu khí quyển địa cầu, lâu lắm một vài ngày rồi đáp xuống phi trường - giờ phút này mọi người đều ở trong trái đất, hành tinh duy nhất có sự sống rõ ràng mạnh mẽ. Có thể sau này kiếm được đất sống hoặc làm lễ an táng trên hành tinh khác như mặt trăng, sao Kim, nhưng hiện giờ tất cả đều gói gọn trong quả đất, hành tinh thuộc thái dương hệ mặt trời. Nếu tìm một mẫu số chung cho tất cả người sống, tôi nghĩ rằng đó là mọi người đang thở. Mọi hoạt động khác có thể đang diễn ra khác nhau nhưng rõ ràng là con người không thể sống mà không thở. Tất nhiên có thể ngưng thở trong thời gian ngắn, nhưng dài lâu không thở thì coi như đã chết rồi.

Tôi hay nghĩ về những người xưa nay có ít nhiều mối liên hệ thân sơ, hiện giờ đang sống tản mác mọi nơi khắp năm châu bốn bể. Như dòng sông chảy qua muôn trùng vạn nẻo, cuộc đời có thể gần một lớp người vào thời điểm này, nhưng lại sống với những kẻ hoàn toàn khác ở giai đoạn sau. Trải qua nhiều biến cố dâu bể thăng trầm, thỉnh thoảng nghe tin đôi người quen xưa đã chết. Những người còn sống, có khi nhiều năm bặt tin tôi vẫn tự hỏi không hiểu bây giờ họ ra sao. Dẫu rằng một số mất khi còn trẻ, hoặc nhiều cụ sống bảy tám chín mươi, nhưng thôi cứ lấy tuổi thọ trung bình là sáu mươi... 60 tức 3 nhân với 20. Nhắc đến con số này để nói lên nhận xét khá lý thú: Hai ba mươi năm so với dòng thời gian hoặc lịch sử đất nước không là gì cả, nhưng đối với đời người quả thật thời gian dài. 20 năm là con số trung bình của mấy lần chia cách. Lớp trẻ không hiểu lắm (vì chưa trải qua, tất cả còn phía trước) nhưng đối với người đứng tuổi, lâu lâu vẫn quay nhìn quá khứ, nhớ quãng đời đã đi qua.

Năm 1954 đất nước chia cắt, thời gian đầu còn liên lạc qua những tấm thiếp thăm hỏi tin tức gia đình, càng lâu càng bặt vô âm tín. Sau này nghe kể lại họa hoằn có những lá thư gởi từ bắc, phải đi vòng qua Pháp rồi quay về miền nam, để nhận được là mấy năm, mất hết thời gian tính. Như vậy còn khá so với nhiều trường hợp khác... Thư đi vòng vèo nghe vô lý nhưng quả đúng có chuyện này. Hai miền cách xa non ngàn cây số nhưng không hề biết tin tức của nhau, còn sống hay đã mất, sau 75 mới gặp lại. Cũng biến cố 75 đột ngột gây lắm cách trở, nhiều năm liền nghĩ thật khó khăn, không thể nào gặp mặt. Nhung 20 năm sau thông thương qua lại dễ dàng, thậm chí người thân qua đời, từ nước ngoài có thể nhanh chóng kịp về dự tang lễ. Thông tin liên lạc bùng nổ, ngoài những phương tiện cần chút ít kỹ năng, đơn giản phổ biến nhất là chiếc điện thoại, bấm nút liên lạc trong giây lát nhanh chóng rõ hết mọi tin tức đôi bên. Người ta thường bảo trái đất tròn. Vòng tròn nói lên sự liên kết chặt chẽ. Có người sống xuyên thế kỷ, hoặc sáu bảy tám chín mươi năm, trải qua nhiều chế độ xã hội, chứng kiến vài ba cuộc chia ly dài dằng dặc 20 năm và cuối cùng hội ngộ trong một mái nhà.

Nói về chuyện sống lâu, đó là một trong 4 điều quý của con người. Tứ quý gồm PHÚC (đông con cái), LỘC (nhiều của cái), THỌ (sống lâu) và KHANG (bình an) hoặc Phúc Lộc Thọ Toàn: được hưởng đủ cả những điều này. Quan niệm ngày mỗi khác, cái gì cũng có vẻ hiếm một tí mới quý. Nhiều Lộc lắm Khang là tốt mà rồi trái đất chật chội... Trường thọ (long life) cũng vậy. Pháp nổi tiếng về tỷ lệ người cao tuổi. Khoa học kỹ thuật tiến bộ giúp con người ngày càng sống lâu. Nhật Bản trước đây hãnh diện là nước tiên phong nâng cao tuổi thọ (cơ cấu dân số già chiếm 60%) rồi cũng chính Nhật thấy rất nặng nề về chi phí phải gánh vác do việc chăm sóc người già (?!). Nhật trước đây tuổi nghỉ hưu là 60 nay nâng lên 65. Xưa xem 60 đã già nay tuổi này là 70. Tuổi trẻ Nhật chuộng sống độc thân. Dân số bị lão hoá, lớp trẻ là nguồn sinh lực dựng xây phát triển đất nước ngày hiếm đi.

Sống lâu là quý và thật đáng mừng nếu còn phần nào minh mẫn, một chút sức khỏe và ít nhiều tự chăm sóc được. Những người sống đến trăm tuổi hiếm khi hoàn toàn vô tư, cao tuổi ai không đôi lần vấp ngã (theo đúng nghĩa đen, đi đứng yếu ớt ngã gẫy chân tay) ảnh hưởng xương cốt. Cuộc đời là những biến động khôn lường. Thật lòng chúng ta phải kính trọng và kính phục các cụ đã sống trường thọ . "Kính lão đắc thọ", "Trọng già, già để tuổi cho", nhưng có những người ái ngại sống lâu quá. Tất nhiên đó không phải là tâm lý chung của mọi người. Nhưng tôi có nhiều dịp tiếp xúc với những người đầy uy tín, vai vế trong xã hội. Tuổi chưa cao lắm nhưng họ cho biết , trong đời nhiều lần nghĩ về thế giới bên kia, ước chi được quy tiên thì hay. Mong một lần xuôi tay nhắm mắt, nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ không trở dậy. Có thể đó là ý nghĩ nhất thời trong một lúc nào đó. Bản năng tự nhiên thông thường của con người vẫn là mong được kéo dài sự sống, mặc dù vẫn cảm nhận khi lìa đời là chấm dứt mọi đau khổ trên đường trần…

Thỉnh thoảng đi trên đường phố đột nhiên ta gặp một đám tang. Bất kể người nằm xuống ra đi vì lý do gì, bất đắc kỳ tử hay đau bệnh dài lâu, còn trẻ trung hoặc già nua tuổi tác như ngọn đèn hết dầu, ta cũng hiểu rồi đã qua một kiếp người với bao cam go thử thách. Cuộc sống địa cầu, hành tinh đối với ta tưởng chừng vô tận nhưng thật nhỏ bé trong dãi thiên hà vũ trụ bao la
…

Đức Yên








“Nếu anh còn trẻ, như năm cũ
Quyết đón em về, sống với anh”

(Phạm Duy/Hoàng Cầm – Tình Cầm)
Trần Ngọc Mười Hai
(Mt 11: 25)


Sydney, đi dần vào những ngày cuối thu, năm 2010. Bần đạo được hân hạnh đưa đón Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành. Là, một trong những người hợp tác gầy dựng phong trào “Bảo Vệ Sự Sống” ở Sàigòn. Và, Lm Lê Đình Phương, Phó Giám đốc Học Viện DCCT, thăm thủ phủ. Gặp nhau, tay bắt mặt mừng, chuyện đã đành. Đành rành hơn, là ý/lời bài “Tình cầm” cứ luẩn quẩn, về trong đầu. Của bần đạo. Vì “sung” quá, nên bần đạo mất cả “tiếng”… tốt. Mất đi cái “giọng cũ gần xa”, êm ái đó. Nên hôm ấy, bần đạo chẳng dám hát bảo: “Nếu anh còn trẻ như năm cũ”, có sẵn trong đầu. Hầu, gửi đấng bậc vị vọng. Cao sang. Chốn ấy.
Còn trẻ gì, mà sao anh cứ hỏi. Và, cứ nói. Hỏi và nói, những điều mà người đời cho là vẩn vơ. Lờ khờ. Hết ý. Đón em về, là đón theo vị thế trên/dưới, rất đôi bề. Đón em về, là đón người anh/người em tuổi đời tuy thua kém, nhưng phẩm trật lại thật cao. Đón em về, là đón chứ không hỏi xem “anh (có) còn trẻ”, nữa hay không. Và, “nếu anh (vẫn) còn trẻ”, thì những gì anh nói với em. Với anh. Với người. Đâu có là chuyện dễ làm. Dễ nói.

Thôi thì, hôm nay, bần đạo/người “em” vừa mới có lại được “tiếng” tốt, nên hát tiếp:

“Những khi chiều vàng phơ phất đến,
Anh đàn, em hát níu xuân xanh.”

(Phạm Duy/Hoàng Cầm – bđd)


Đấy kìa, ngày anh đến. Với Sydney. Em và tôi, ta vẫn cứ ca và cứ hát, đấy chứ. Nhưng đâu nào níu được mùa xuân. Xuân tuơi trẻ. Ngày xưa ấy. Buổi “chiều vàng”. “Bàng bạc”, Nhiều “vầng mây”. Nên, anh lại hát:

“Có mây bàng bạc, gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng, soi giấc mơ.
Có anh ngồi lại, so phím cũ,
Mong chờ em hát, khúc Xuân xưa.”

(Phạm Duy/Hoàng Cầm – bđd)


Xuân xưa. Xuân nay. Chắc em và tôi, ta cứ nói. Nói, về Đức Chúa của Mùa Xuân. Về Chúa Xuân. Ở cõi Trời, đầy tình mến. Để, tôi và em, ta nhớ lời Chúa Xuân, xưa vẫn dạy:

“Lạy Cha là Chúa trời đất,
Con xin ngợi khen Cha,
vì Cha đã giấu những điều ấy cho hạng thông thái,
nhưng đã mạc khải racho kẻ bé mọn.”

(Mt 11: 25)


Rõ ràng: em và anh, ta đâu là “hạng thông thái”. Vẫn, “bé mọn” ở muôn thời. Nên, Chúa mạc khải cho ta điều mà nhiều người không hiểu. Thế nên, ta cứ hát:

“Nhưng thuyền em buộc, trên sông Hận
Anh chẳng quay về, với trúc tơ…”

(Phạm Duy/Hoàng Cầm – bđd)
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 04.07.2010    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Sông Hận. Trúc tơ. Nay, em và anh, ta ít nghe những điều mình cần hiểu. Nên, vẫn bảo:

“Ngày tháng tỳ bà, vương ánh nguyệt,
Mộng héo bên song, vẫn đợi chờ.”

(Phạm Duy/Hoàng Cầm – bđd)


“Ngày tháng tỳ bà”, là tháng ngày của “sông Hận”. Bận “ánh nguyệt”. Của, “mộng héo” bên sông. Tháng ngày chờ mong. Chờ, niềm vui đến. Mong, hạnh phúc Chúa gửi. Đến muôn người.
“Ngày tháng tỳ bà”, là tháng ngày buồn khi người em bé bỏng chẳng biết Chúa Xuân, vẫn mạc khải. Bảo ban. Làm sao nghe, nếu em không có đôi tai tròn. Xinh xắn. Làm sao có, nếu mẹ cha không cho em chào đời. Sống với người.
Vâng. Nhân sinh người đời, vẫn chuyện buồn “sông Hận”. “Mộng héo”. Rất “Tỳ bà”. Nhân sinh cuộc đời, vẫn đợi và vẫn chờ. Chờ đợi, một giấc mơ. Xưa. Giấc cũ xưa, vẫn mơ giấc của người đời khi xưa. Trong Đạo. Vẫn về với ưu tư. Thắc mắc. Về, quyết định của nhân sinh người người. Về, sản sinh kẻ “bé mọn”, Chúa nhủ khuyên. Về ngừa thai, như thư của bổn đạo “miệt dưới”, rất Sydney.Thư, là thư về ngừa thai. Sinh đẻ. Kể như sau:

“Vẫn biết rằng, Hội thánh vẫn theo luật, để suy tưởng. Suy và tưởng, về biện pháp ngăn ngừa sử dụng ngừa thai không phù hợp với thiên nhiên. Thế nhưng, có những vợ chồng trẻ vẫn cố lẩn lách việc sản sinh ra bé em để dưỡng nuôi. Vậy, thì xin hỏi: có gì khác biệt giữa phương pháp ngừa thai tự nhiên, với kế hoạch hoá gia đình, như Giáo hội dạy? Xin cho biết lập trường đúng đắn của Hội thánh, để thực thi.”

Lập trường đúng. Chính qui. Thanh bạch. Nay muốn biết. Vẫn cứ vời đến lời đáp giải của đức thày nhà Đạo, tuy không mới. Cũng chẳng lạ. Nhưng, hãy xem đức thày vị vọng ở Úc, có lập trường phóng khoáng hơn xưa, không? Và đây, câu đáp trả:

“Trước hết, điều quan trọng là: ta nên tỉnh táo hiểu rằng: người thường có lý do nào đó dễ bào chữa cho hành động của mình, hầu lẩn tránh việc sinh con. Hôm nay. Mai ngày.

Năm 1968, Đức Phaolô Đệ Lục đã có tông thư được gọi là Hiến chế “Đời Sống Con Người” khi ngài viết: “Ở vào tình trạng khi mình có vấn đề về thể xác, kinh tế, tâm lý, xã hội, thì bậc cha mẹ phải có trách nhiệm khi ra quyết định phóng khoáng, độ lượng; ngõ hầu dựng xây gia đình, cho phải phép. Quyết định đề ra, phải do động lực thúc đẩy việc tôn trọng đạo đức, để không còn tránh né chuyện sinh con. Vào lúc này. Hoặc, trong tương lai.” (#10)

Nói thế, có nghĩa: những ai ở vào tình trạng có bệnh về thể xác, đau yếu tâm thần cả về phía vợ lẫn chồng, khiến họ có khó khăn nghiêm trọng trong cuộc sống, vv.. mới xác định được là mình nên đẻ thưa ra, hoặc tránh không nên có thêm con, vào lúc ấy.

Trở lại câu hỏi của anh/chị, thì: nếu vợ chồng có lý do chính đáng để thôi không nên có thêm con nữa, có gì khác biệt giữa kế hoạch hoá gia đình tự nhiên, với chuyện ngừa thai không? Câu trả lời là: Có chứ. Khác, một trời một vực.

Ý Chúa, là: Ngài ban cho con người sức mạnh dục tình là để họ có thể sử dụng nó mà diễn bày tình yêu mật thiết, của hôn nhân. Diễn bày, trong khuôn khổ đoàn kết hiệp nhất. Luôn mở ngỏ. Để tặng ban sự sống. Tặng ban, theo nghĩa đồng công tạo dựng sự sống.

Qua Hiến chế “Cuộc Sống Con Người”, Đức Phaolô Đệ Lục đã giải thích lý do nói tại sao tránh thai lại là động thái không đúng với luân lý/đạo đức con người, vì “những gì Chúa kết hợp, loài người không được phân ly”. Tức, ý Chúa muốn con người phải sinh sôi nảy nở, thì không ai được phá bỏ ý Ngài. Mà, chỉ làm theo ý mình. Sinh sản, là động tác phối kết vợ chồng. Phối kết hài hoà. Là, đồng công tạo dựng sự sống, cùng với Chúa. Nếu duy trì hai ý nghĩa kết hợp và đồng công tạo dựng sự sống, thì động tác giao thoa/phối kết sẽ bao gồm ý nghĩa thương yêu tràn đầy, theo hai chiều. Tựa hồ kêu gọi con người hãy tuân thủ ý hướng của Chúa mà làm cha làm mẹ, cho đúng nghĩa.” (#12)

Người phối ngẫu muốn thực hiện kế hoạch hoá gia đình cho đúng phép tự nhiên, thì họ nên chọn lối giao thoa/phối kết vào thời kỳ vô sinh, của người nữ. Làm như thế, họ không khoá đóng khả năng sinh sản. Nhưng, mở ra cho sự sống. Làm như thế, là họ tuân theo chu kỳ sản sinh, Chúa tạo dựng.

Vợ chồng có trao thân dục tình cho nhau hay không, tuỳ tự do của hai người. Thành thử, nếu cả hai chọn không quan hệ dục tình vào một số ngày nào đó trong tháng, thì việc ấy cũng chẳng có gì là tội. Hoặc, bất luân.

Hơn nữa, quan hệ dục tình vợ chồng, là động thái yêu thương rất đích thực. Nói đúng, là trao thân gửi phận, cả hai chiều. Có hỗ tương. Làm như thế, hành động của họ sẽ phản ánh việc Chúa trao ban Thân Mình Ngài cho con người. Và, khi vợ chồng tặng trao thân xác mình qua giao thoa dục tình, là họ quyết định đạt cho được sự đậu thai sung mãn. Không giữ lại gì. Làm như thế, là họ chấp nhận yêu con cái, Chúa tặng ban.

Ngược lại, khi sử dụng biện pháp ngừa thai, thì cả hai không còn tặng trao cho nhau trọn nguời mình. Có tặng có cho, cũng chỉ cho mỗi thân xác dục tình, mà thôi. Vẫn giữ lại khả năng sinh sản bằng các vật cản thể lý/hoá chất, để tránh việc có con. Làm như thế, tức là đã phản bác. Đã thay đổi tính tự nhiên nơi hành động tặng trao thân xác, của chính mình.

Điều này không chỉ mang tính ngược ngạo, kình chống kế hoạch của Chúa bằng sử dụng quan hệ dục tình thôi, lại cũng chẳng thể hiện tình thương yêu đích thực, như Chúa muốn.

Năm 1981, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị đã giải thích thêm bằng Tông thư mang tính khuyến cáo với tựa đề:“Familiaris Consortio” (Đồng Thuận Gia Đình) có ý bảo: “Ngôn ngữ bẩm sinh diễn tả trạng thái vợ chồng trao ban thân xác cho nhau là trao ban theo cung cách “có đi có lại”. Còn, việc thực hiện ngừa thai, lại bao choàng ngôn ngữ ngược ngạo nghĩ rằng như thế mới khách quan, nhưng thực ra cả hai đã không đích thực trao thân mình cho người kia, cách trọn vẹn. Hành động này, không chỉ dẫn đến trạng thái khước từ mở lòng mình ra với sự sống mà thôi. Nhưng, còn bóp méo sự thật nội tại của tình vợ chồng, nữa. Bởi lẽ, tình yêu vợ chồng kêu gọi hai người trao ban cho nhau con người mình, vẹn toàn. Và, thật lòng.” (#32)

Động thái giao thoa/phối kết vợ chồng mà sử dụng phương pháp ngừa thai, là: động thái chỉ mang tính dục tình thể xác, chứ không có nghĩa yêu thương gì hết. Vợ chồng nào lúc đầu có sử dụng biện pháp ngừa thai, nhưng sau này đã biết tặng trao cho nhau trọn con người mình, mà không tính đến biện pháp ngăn ngừa thụ thai gì hết, sẽ cảm nhận được sự khác biệt trong hành xử. Thương yêu. Rất nhiệt tình.

Thêm vào đó, vợ chồng nào thực thi kế hoạch hoá gia đình vì lý do chính đáng, sẽ nhận ra rằng tình yêu họ tặng trao cho nhau, mới đích thực tăng trưởng. Trao tặng tình yêu cho nhau, có đồng thuận nhín nhịn giao thoa mỗi tháng một ít ngày, sẽ làm cho đôi bên tôn trọng lẫn nhau, nhiều hơn. Càng khiến mình biết tự chủ. Làm chủ chính thân xác của mình. Làm chủ đời mình, nhiều hơn.”(Lm John Flader, The Catholic Weekly 23/5/2010 tr. 11)

Ấy đấy, lời ngọc ngà của đấng bậc vị vọng. Rất chính qui. Thanh bạch. Tận hiến, cho Chúa. Đây này, một lời khác. Lời, rất văn hoa/thi tứ của người viết nhạc, ở ngoài đời. Như sau:

“Nếu có ngày nào, em quay gót
Lui về thăm lại, bến Thu xa
Thì đôi mái tóc, không còn xanh nữa
Mây bạc trăng vàng, vẫn thướt tha...”

(Phạm Duy/Hoàng Cầm – bđd)


Cũng có thể, giòng chảy cuộc đời ở đôi phía, vẫn thướt tha. Song hành. Không trùng phùng. Bởi, con người sống ở đời, có quá nhiều nghịch lý. Ích kỷ. Trái khuấy. Tuy cũng lựa chọn yêu thương nhau, thật đấy. Nhưng, là chọn theo cung cách ngoài đời. Chứ không là chọn lựa theo kiểu con dân, Đạo Chúa. Lựa chọn, để tìm ra lối sống thích hợp. Hợp tình. Hợp lý. Với mỗi người.

Nói tóm lại, sống ở đời, mọi chuyện cần để Chúa hướng dẫn. Yêu thương. Quên mình. Mà, tặng trao. Trao tặng, niềm vui. Trong mọi sự. Như truyện kể để bớt căng, như sau::

“Truyện rằng:
Chú muỗi đực nọ cứ tàn tàn bay quanh trên đầu một người nọ, khiến người ấy tức chết được. Hắn bèn rình rập, đập nát thây. Muỗi ta thấy ức, nên khi về chầu Thượng Đế, muỗi bèn thưa:
-Thưa Ngài, con có làm chi nên tội đâu, mà sao loài người cứ tìm cách đuổi theo con rồi đập cho chết. Xin Ngài cứu xét tình cảnh khốn đốn, của con đây.
-Thế, anh có chích người ta không?
-Dạ không. Chỉ có muỗi cái khát máu, mới chích người. Tụi con đây là dân “chay trường” đâu dám hỗn.
Thượng Đế nghe vậy, bèn rà soát với các kỹ sư sinh đẻ, ở đời. Kết quả cho biết, đúng là chỉ muỗi cái, được tạo dựng theo cung cách đặc biệt mới đâm chích làn da con người, hút máu đám người để sinh sản, nuôi con. Vòi của muỗi đực, được tạo dựng theo dạng loa kèn, đâu để chích! Thượng Đế nhìn muỗi đực, thấy ngại, bèn hỏi lại:
-Này chú muỗi đực, thế nhà anh có hay chọc chích muỗi cái, không thế?
-Trình Ngài coi lại, chứ vòi của con đây mà chích được ai, cơ chứ!
-Anh hiểu sai ý Ta rồi. Ta muốn hỏi: anh có chích muỗi cái bằng thứ gì khác không?
-Dạ, chuyện ấy thì … thưa Ngài lâu lâu con cũng làm.
-Vì anh có làm, nên muỗi cái mới sinh con, nó cần chất bổ để nuôi con nên mới phải hút máu con người. Nếu anh không chích, làm sao giòng họ muỗi được tồn tại, đến hôm nay?..
Nghe Thượng Đế giải thích lý lẽ cuộc đời, muỗi đực bèn uất ức, bật tiếng khóc. Thấy vậy, Thượng Đế bảo:
-Thôi được Ta cho anh sống, với điều kiện…
-Thưa Ngài, điều kiện gì, xin cứ nói?
-Là, từ nay ngươi không được chích muỗi cái, chỉ để vui chơi cho thoả thích. Nhưng, mỗi lần làm thế chỉ để sản sinh muỗi con mà thôi. Con có chịu như thế không?
-Thưa Ngài, nếu vậy…nếu vậy, con xin thà chết sướng hơn…”

Truyện kể, có thể không như thế. Tức là, không thực. Chỉ là, tiếu lâm chay để người người, sống cho dễ. Nhưng, cũng là bài học ở đời. Theo cách khác. Không theo cách thế của Hiến chế Humanae Vitae. Nhà Đạo. Vẫn hơi khó, với dân thường. Khó hiểu. Khó thực hiện. Ở đời.


Lời cuối cho tôi, chứ không cho bạn, là lời khích lệ: ta nên về với truyền thống. Rất Thánh Kinh. Về, để suy tư. Kiểm điểm. Trong thinh lặng. Nguyện cầu. Chỉ mình ta, với Chúa. Chỉ để Chúa, phán với ta. Thinh lặng, để rồi sẽ hiểu ngôn ngữ thời buổi bây giờ. Dễ cảm thông. Đồng thuận.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn xin sự cảm thông. Đồng thuận.
Ở trong Đạo. Và, ngoài đời.
Rất người.
Trần Ngọc Mười Hai




TU LÀ CỘI PHÚC

Hoàng Thị Đáo Tiệp

-
Chị ơi em muốn đi tu!
Đây là lời của một nam bạn đọc sồn sồn cho tôi biết thế, sau khi báo tôi hay rằng cậu xin được ở linh mục Chủ Bút số điện thoại của tôi.
Ôi! Câu nói sao mà tôi thèm được nghe vô cùng! Chả vì Năm Linh Mục đang sắp kết thúc và tôi thấy mình trong năm Linh Mục nầy cũng có thiết tha cầu nguyện cho ơn gọi của cánh đồng truyền giáo nữa! Bởi thế trước tin báo bất ngờ thế của cậu bạn đọc lần đầu tiên liên lạc: tôi cảm thấy như mình được Chúa thưởng công…
Nhưng! Tôi cũng vụt thắc mắc vì tin vui sao cậu lại báo với giọng …yếu xìu chớ không có phấn khởi?! Và sao linh mục Chủ Bút lại đồng ý cho cậu nói chuyện quan trọng nầy với tôi?! Ngài thừa biết tôi “đời” chớ đâu phải “tu” nên nói năng bàn góp cho cái chuyện của người muốn đi tu là có khả năng tôi làm “hư bột hư đường ” hết chứ?!
Dù thắc mắc vậy, tôi vẫn cám ơn cậu báo tin vui, với nồng nhiệt chúc mừng và giục cậu:
-Đã có ý muốn tốt lành thế thì em cũng nên xúc tiến cho ngon lành “cái rụp” luôn những bước tiếp theo đi! Tỷ như lo sớm sủa lên đường để tìm hiểu ơn gọi chẳng hạn.
-Em đang ở tù mà chị!
Ơ hay ở tù?! Không lẽ nào! Nhưng, giọng cậu đau khổ bảo cho tôi biết thế! Tôi nói:
-Chị không tin! Em mà ở tù thì làm gì có được tự do thoải mái để nào gọi đến toà báo, với nào gọi cho chị nữa?!
-Chị! Em ở tù thật mà! Nhưng không phải em phạm pháp nên bị tù hình sự hay gì gì đâu! Em ở tù là do em tự nguyện! Chị thừa biết loại tù đó rồi chớ? Loại tù mà người ta thường nói ví von rằng: “Con cá trong lờ đỏ lơ con mắt. Con cá ngoài lờ lúc lắc muốn vô!”
Ra vậy! Cậu đã có gia đình và đang bị mệt mỏi với đời sống hôn nhân mới réo tôi, mà tôi thì lại bé cái nhầm nên phải bị mừng hụt! Thảo nào lúc vào câu chuyện, cậu ngỏ ý muốn đi tu nhưng nghe …yếu xìu! Và chắc linh mục Chủ Bút cũng có cái ý thế nào đấy nên thấy cậu muốn tìm liên lạc với tôi, ngài mới chiều lòng…
Tôi hiểu câu chuyện ắt sẽ hứa hẹn thú vị đấy, mặc dù giọng cậu đang quá là buồn! Tôi muốn được nghe giọng cậu vui vui lên cơ, cho nên tôi hỏi:
-Thế thì cái thuở “Con cá ngoài lờ lúc lắc muốn vô” là đã có cân nhắc chọn kỹ cái lờ theo đúng những tiêu chuẩn mong muốn mới chui vô, hay là “ma đưa lối quỷ đưa đường” nên “a thần phù” lao vô đại, hoặc bị sóng xô nước cuốn “ép duyên” nên phải trôi phăng vào?
-Bà chị à! Em ba mươi hai tuổi và có sự nghiệp đâu đó mới lập gia đình! Vợ em là em tự chọn và đương nhiên phải đúng với những tiêu chuẩn em mong muốn chớ! Vì em lấy vợ cho em mà!
Cậu đáp với giọng cũng chưa có vui nên tôi nói thêm:
-Vậy là tốt lắm! Nhưng! Giá như em cũng nên tranh thủ thêm những kinh nghiệm của càc đấng mày râu rỉ tai cho nhau về các tiêu chuẩn cần phải tránh khi chọn vợ, thì có lẽ được tốt hơn nữa đấy!
- Thế hả chị? Em không biết! Chị nói em nghe xem họ rỉ tai nhưng kinh nghiệm nào!
-Chị không nói mà đọc vì đây là bài thơ có nhan đề “Lấy Vợ”. Chị không rõ đấng râu mày nào là tác giả? Mà do nhóm bạn Chu Văn An của ông xã chị gửi cho nhau nên chị được đọc ké.
Và tôi đọc cậu nghe một số đoạn như:
Lấy vợ không nên lấy vợ non,
Ra đường ai biết cháu hay con?
Nhí nha nhí nhảnh đòi vàng bạc,
Bán cả bàn thờ sắm phấn son.

Lấy vợ không nên lấy vợ già,
Bố ai biết được chị hay bà!
Sanh vài ba lượt người teo nhách,
Má hóp xương lòi giống như ma.

Lấy vợ không nên lấy vợ giàu,
Ra đường thiên hạ bảo trèo cao!
Về nhà bị vợ đì thảm thiết,
Mất mặt trượng phu đấng anh hào!

Lấy vợ nên kiêng lấy vợ nghèo,
Ông bà cha mẹ khó ăn theo!
Cày sáng cày khuya mà vẫn đói,
Nhà trần chiếu đất với ao bèo!

Lấy vợ không nên lấy vợ ghen,
Áo quần lúc giận xé teng beng!
Rủi hôm cao hứng chồng về trễ,
Đập chén quăng ly, vỡ cả đèn….


Ôi! Cậu nghe mà cười vang, cho biết bà xã cậu không non, không già, không giàu, không nghèo và cũng không có ghen tuông gì hết!
Cậu vui được là tôi mừng và thấy cậu biết hãnh diện như thế về vợ nên tôi tỏ sự ngạc nhiên:
-Nhưng sao em lại muốn đi tu?
-Bà chị à! Em nói em muốn đi tu vì em hối tiếc phải chi hồi đó em chịu nghe những người đã và đang lâm vào cảnh: “con cá trong lờ đỏ lơ con mắt” luôn khuyên em rằng “Tu là cội phúc, tình là dây oan”, nên khôn hồn thì hãy đi tu chớ có đừng dại dột mà đi lấy vợ! Và em muốn vấn ý chị vì em nhớ trong một bài viết trước đây chị có kể chuyện lúc mới quen với anh được anh đưa đến Dòng Kín, thấy tượng Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu tuyệt đẹp ,đầy hoa hồng nằm thanh thản cách chi là chị khao khát muốn đi tu. Mà anh bảo chị đi tu là phạm tội giết người vì anh sẽ héo hon chết mất, nên sau đó chị đã cùng anh nên duyên đôi lứa…. Thế thì trong cuộc đời làm vợ, chị sẽ làm sao khi ước muốn đi tu ngày nào đó nó vụt quay về đánh thức chị, xin chị bày cách cho em với?

Tôi vỡ lẽ thì ra chốt lại là tôi được cậu “lôi” vào chuyện “chị ơi em muốn đi tu” chỉ với lý do có như thế mà thôi! Ôi là…buồn năm phút …cho việc mình bé cái nhầm vì tôi tưởng đâu mình cũng ...ngon lành ra trò… nên được Chúa thưởng!
Tôi nói:
-Em hỏi cái câu chị khó trả lời nhen! Vì nhỡ chị nói thật cái ý của chị mà không hợp với ý của em thì mích lòng em! Hay là em nói cụ thể vấn đề của em cho chị rõ đi, để biết đâu chị cũng sẽ mách được cho em đôi điều hữu ích!
-Em thật lòng hỏi chị và muốn nghe mà! Xin chị nói cho em được biết với!
Tôi đành phải chiều ý cậu:
-Đơn giản thôi em, bởi thật tình cái tánh của chị: gì chớ trong việc hôn nhân hễ một khi “ván đã đóng thuyền” thì có thế nào cũng sẵn sàng đón nhận và tín thác ở Chúa. Tuyệt đối không có vấn đề đặt lại để phải hối tiếc rồi ‘đứng núi nầy trông núi nọ”, hoặc thối chí nãn lòng mà phá ngang hay chia tay bỏ cuộc! Và vì chị an phận với cuộc đời làm vợ, làm mẹ nên đâu có bao giờ cái ước muốn đi tu đó đội mồ sống lại mà quay về tấn công chị được! Hoặc cho dù cái ước muốn đi tu đó có đội mồ sống lại thì chị coi như mình đang tu tại gia vì ông bà xưa có dạy: “Tu đâu cho bằng tu nhà. Thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”. Cho nên đã có gia đình, chị cứ sống hết mình với chồng con và chăm lo cho hạnh phúc gia đình thì đó cũng chính là chị đi tu vậy, mà là tu tại gia. Hơn nữa Thánh Phao lô có dạy: “ vợ không đưọc bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng”(1Cr 7,10-11) nên chị không ngu dại gì mà không giữ lấy ông chồng như “của gia bảo” để vừa thuận theo luật Chúa thì lúc chết sẽ dễ được lên Thiên Đàng, còn lúc sống cũng được hưởng cái phước của người “có chồng hơn ở giá!”.
- Cũng như em là phải: “Có vợ hơn nằm không” chớ gì?! Bà chị ơi em biết vậy và em cũng muốn như thế! Nhưng cảnh của em bây giờ đã khổ, còn thêm vợ em….
Cậu ngập ngừng không nói tiếp, tôi nói:
-Em ngại gì nào? Em úp mở không chịu nói rõ ra cho chị hiểu thì chị biết em “ngứa ở đâu mà gãi” để may ra còn an uỉ được em chứ?! Trước giờ chỉ có em là người bạn đọc duy nhất có lòng gọi cho chị, mà như “sợ bóng sợ vía” chi đó nên không có dám để cho cái miệng được “tự đo ngôn luận” nhen!

- Chị ơi chung quy là do em không muốn trở thành người chồng đi bêu xấu vợ mình! Cho nên dù em xin được số điện thoại chị đã mấy tuần qua mà vẫn chưa có gọi chị để tâm sự! Nhưng vì suốt mấy hôm nay lúc nào em cũng thấy buồn phiền và bất đắc chí lắm chị! Mà nếu cứ tiếp tục tình trạng ngày qua ngày gặm nhấm nỗi buồn thì chắc thế nào em cũng sẽ đổ bệnh mất thôi! Nhất là cái bệnh “Depression” tức bệnh “trầm cảm” đấy chị, là bệnh bao người cũng chỉ do buồn phiền không lối thoát mà vướng phải!
Cậu nói thế rồi ngưng.Tôi muốn nói cho cậu biết là cậu không nên vội lo mình bị bệnh đó.Vì những ai vướng phải bệnh đó thì cứ người nào họ thương yêu nhất và gần gũi nhất là nói xấu không tiếc lời và còn chê trách đủ điều nữa! Nhưng kìa cậu thao thao nói:
- Chị đã mở lời thế, thôi thì em xin được tâm sự đầu đuôi câu chuyện của em! Thật tình là em đã có ý định đi tu từ nhỏ nhưng nấn ná để phụng dưỡng cha mẹ vì thấy cha mẹ già yếu, em là con út mà mấy ông anh, bà chị thảy đều tất bật với chuyện gia đình của họ! Rồi do cảm mến cô bạn láng giềng nhỏ hơn em một tuổi, cũng vì muốn sớm hôm được gần gủi phụng dưỡng song thân nên cô chẳng nghĩ chi đến chuyện chồng con …mà hai chúng em yêu nhau lúc nào không hay! Kết quả là chúng em cùng nhau xây dựng gia đình đã mười một năm hơn và sinh được ba cháu hai trai một gái: cháu lớn nhất mười tuổi, nhỏ nhất bảy tuổi. Cũng như có tậu được ngôi nhà khá khang trang và đã trả dứt nợ từ hai năm qua. Thì đùng một cái: em bị thất nghiệp cũng đã ròng rã suốt hai năm nay! Chị ơi thất nghiệp em đã buồn, lại càng buồn hơn ở lối đối xử trở mặt rẻ rúng em cách tàn nhẫn của không những bên nhà vợ, mà luôn cả đến người vợ đầu ấp tay gối của mình nữa! Ai đời vợ chồng nhưng lúc em thất nghiệp thì đồng lương vợ em kiếm được lại không bỏ vào trương mục chung của hai vợ chồng, mà cô ấy mở riêng ra một trương mục mới để cất giữ! Em vì thất nghiệp nên việc chợ buá em đi, cơm nước em nấu, đưa đón con đi học đi bác sĩ, trả các hoá đơn tiền điện nước, bảo hiểm các thứ… là em lo và em cứ cà thẻ rồi cuối tháng họ kết toán bao nhiêu em mới sẽ ký chi phiếu hoàn lại cho họ. Mà trương mục chung thì chỉ có chi ra chớ không có gửi vào nên tiêu mãi cũng cạn kiệt! Xin vợ bỏ tiền vào cho mình ký trả, vợ cứ tỉnh bơ! Còn năn nỉ vợ ký trả cho mình vợ cũng lờ luôn! Hậu quả là bao nhiêu cái “credit card” em đã “build up” suốt bấy nhiêu năm để luôn được “good credit” mà nay thành “bad credit” hết, nên em khổ tâm lắm chị! Cái lúc em ăn nên làm ra thì cứ xài xả láng cho vợ và nhà vợ như thể một thằng khờ! Em bây giờ bị “bad credit” trong khi tiền họ đốt em cháy ra tro còn được nữa là!
Cậu ngưng một thoáng để hỏi tôi:
-Chị có đang nghe em nói đấy không?
-Có, chị đang lắng nghe không chỉ với đôi tai mà cả trái tim và khối óc của chị nữa!
Vậy là cậu nói tiếp:
-Đấy! Em bây giờ chỉ vì thương ba đứa con mà phải sống với vợ em! Chớ đầu óc em lúc nào cũng thấy ngao ngán chán chường cho đời sống lứa đôi hiện đã bị vợ em đặt ưu tiên không là tình yêu, tình người nữa, mà là “money talk” nên em cứ hay hoài vọng về giấc mơ ngày nào! Tâm sự với vài ba người bạn thật thân thì chúng bảo em đã không thực tế còn thêm dở hơi! Chuyện đi tới không tính lại tính chuyện thối lui của cái thời độc thân mơ ước! Phải “có ở trong chăn mới biết chăn có rận” nên chắc gì đi tu đã sướng mà hoài vọng hảo?! Đang thất nghiệp cần tiền thì nếu không làm được việc nhiều tiền, hãy làm cái việc ít tiền có sao đâu! Nhất là bây giờ nhà cửa, xe cộ đã lo xong nên tháng tháng chỉ cần làm vớ vẩn chi đó cũng dư sức kiếm được mấy trăm bạc để trả cho mình đừng bị “bad credit”, chớ trông chờ ở vợ làm chi để phải buồn phải trách vợ mình ?! Phụ nữ nào lại chẳng ham tiền và người vợ nào lại không muốn được chồng phụ giúp với mình từ việc lao ra xã hội kiếm đồng tiền với luôn cả biết bao là việc không tên trong đời sống gia đình nữa! Em thì nhân thất nghiệp ở nhà lo cho con mới hiểu thế nào về nhu cầu hàng đầu của con cái là cần tình thương yêu và sự hiện diện của mình luôn bên chúng! Mà nhà đâu có phải thiếu tiền hoặc cần tiền đến đỗi để em phải lo lao ra đi làm kiếm tiền, bỏ bê con cái! Em mong vợ em cũng nên hiểu cho điều ấy mà tháng tháng bỏ ra cho em mấy trăm đô, bất quá thì coi như là tiền mướn nguời coi trẻ vậy! Vì thật ra lúc em đi làm thì tiền mướn coi ba cháu tốn nhiều hơn. Để vợ em hoặc tự ký chi phiếu trả giùm em hoặc đưa tiền cho em ký, em mới không phải bị ‘‘bad credit’’ mà đằng nầy…! Em hoàn toàn ngao ngán, thật sự mệt mỏi và quá vỡ mộng về cái đời sống hôn nhân hiện không còn thấy đâu là tình yêu thương chồng vợ cảm thông, chia sẻ, ủi an, tôn trọng nhau mà chỉ có “money talk” nầy! Tất nhiên em cũng biết em có cái tánh mà vợ em không thích mới “xiết hầu bao” em về tiền bạc! Vì hễ em có tiền là hay cho hay giúp các việc phúc thiện quý cha quý sơ kêu gọi, cho dù ngay cả lúc em mất việc làm nhưng thấy trong trương mục vẫn còn tiền.
Cậu nói đến đây thì ngưng một thoáng rồi thốt với giọng như sắp khóc:
-Thôi đủ rồi nhen chị! Xin chị đừng bắt tội em nói nữa! Em chỉ muốn được nghe chị nói bảo gì cho em mà em thấy em chấp nhận được: để cho em tâm ổn lòng vui mà sống qua cái giai đoạn nầy!!!
-Là giai đoạn mà em mới đang lần đầu tiên trong đời bị “bad credit” chớ gì?! Và chỉ mới có xảy ra trong vòng mấy tuần nay thôi?
-Vâng! Vì vợ em đã đối với em quá tàn nhẫn như vậy trong khi tiền cô ấy đốt cháy em còn được! Thì tình nghĩa gì nữa mà tiếp tục ăn ở với nhau nên em mới thấm thía thế nào “Tu là cội phúc”!
Thật là thương cho suy nghĩ của cậu, tôi nói:
-Em à với cái nhìn của em như vậy, chị nghi nếu em có đi tu và được làm linh mục thì trước sự việc những người giáo dân trong xứ em giàu sụ, đồng tiền của họ đốt trọn cả giáo xứ cũng chết nữa là; nhưng nhà xứ cần tiền xây sửa và bao việc mục vụ trong giáo xứ cần họ đóng góp bạc tiền, công sức mà họ vẫn gác ngoài tai …chị e em cũng sẽ bị khủng hoảng thôi! Và chị lo em cũng sẽ thấy không thể tiếp tục sống chung với họ trong cùng một giáo xứ nữa đấy! Vậy thì sự việc em sẽ giải quyết thế nào?! Xin chuyển đi xứ khác lại cũng gặp những người như thế...chẳng lẽ em cứ xin chuyển xứ khác rồi xứ khác nữa mãi hay sao?! Hay là em đành phải xin cởi áo nhà tu để hoàn tục vì những người nghèo chia sẻ nầy sao ?! Trong khi những người nghèo mới là đối tượng của Tin Mừng, mà bổn phận vị linh mục là phải bằng mọi cách đưa họ về với lòng thương xót Chúa. Vì họ tuy giàu tiền của nhưng lại nghèo chia sẻ nên cái nghèo đó tự họ làm cho họ bị mất đi phẩm cách dù họ có được ngồi trên đống bạc đi nữa! Đấy là chưa kể đến phần thưởng đời đời là nước trời cũng có khả năng vuột khỏi tầm tay của họ luôn! Bởi vậy đây là cái nghèo thật đáng tội nghiệp vì họ là hiện thân của những con chiên lạc đang bị sống trong bể mê đường tối! ….Còn bà xã em, tại em chủ quan không nhìn thấy, với thêm em trót đã lý tưởng hoá vợ mình nên em mới vỡ mộng thua đau! Chớ chị tuy mới có được nghe em kể thoáng thoáng thôi là cũng đủ thấy vợ em hội đủ cả bốn yếu tố mà vị tác giả ẩn danh kia đã khuyên: hễ lấy vợ hãy nên tránh! Bởi em lấy vợ “non” nên việc như vậy mà không hiểu biết để thông cảm với chồng! Em lấy vợ “già” nên đây là lối xử sự của người trên kẻ trước em: đúng ý họ, họ làm chớ không màng đếm xỉa chi tới ý của em hết! Em lấy vợ “giàu” thành thử mới bị vợ hống hách “đì” cho biết thân và làm cho em mất mặt mất sĩ diện luôn cho biết tay bà! Em còn đặc biệt lấy vợ “nghèo” nhất là nghèo về sự cảm thông, chia sẻ, trao ban, quảng đại cho đi. Em còn lấy vợ “ghen” nên không ưa không thích các việc phúc thiện em làm mới sẵn sàng xiết hầu khi gặp dịp….Và nói chung những cái điều nên tránh đó, nhưng đã có ở vợ em là cũng có luôn không nhiều thì ít ở những người vợ khác kể cả chị! Nó cũng có luôn ở những ông chồng nữa, kể cả em! Nào! Đâu em hãy nghĩ xem em có “ghen” không khi chỉ trong một thoáng của câu chuyện mà em lập đi lập lại đến hai lần về việc “đồng tiền của vợ em đốt em cháy ra tro còn được” trong khi cô ấy để cho em bị “bad credit”! Em có “nghèo” không khi trong đời sống lứa đôi: vợ em cho em cả cuộc đời và chồng thất nghiệp thì mình vẫn cặm cụi lo làm… mà em đã không thương không quý xem như bị ở tù, lại còn hối tiếc phải chi đừng có lấy….

Tôi ngưng nói, chờ nghe ý cậu nhưng cậu vẫn im lặng nên tôi nói tiếp:
-Bây giờ phải làm sao để cho em được tâm ổn lòng vui mà sống cho qua cái giai đoạn nầy? Thì em đã thấy ra được việc: “Tu là cội phúc” rồi đấy! Nên cứ thế mà theo là không những em vui sống được trong giai đoạn nầy thôi, cả luôn đến các giai đoạn gian nan cùng cực tiếp theo nữa của đời người. Vì rồi đây khi con cái tới tuổi vị thành niên, nhiều khi chỉ vì muốn con ban đêm hãy lo ngủ để giữ sức khoẻ mà học, nên rầy la con khi thấy tối khuya con vẫn còn nói chuyện điện thoại, nhưng con lại dại dột đi uống thuốc tự tử …để lại cho cha mẹ không chỉ đau thương còn thêm đủ thứ phiền muộn với luật pháp xứ nầy!... Hay khi con cái trưởng thành thì phá gia chi tử, bất hiếu khôn lường!... Hoặc khi vợ chồng cao tuổi, ốm đau bệnh tật, khó tánh khó nết khó ai chịu nỗi….Nhưng chữ “Tu” theo chị, tốt nhất là nên hiểu với cái ý phải “sửa mình và sửa mình liên lỉ” để mình luôn được thích ứng với hoàn cảnh,dù cho hoàn cảnh đó có bi thảm đến đâu! Sửa mình là hãy tự chấn chỉnh lại và kiên quyết từ bỏ cái tôi sai trái của mình đi. Sai trái từ trong cảm xúc, trong ý nghĩ, trong lời nói chứ không chỉ trong hành động thôi.Vì nhiều khi chỉ cần một chút cảm xúc lệch lạc, một ti ti ý nghĩ sai trái thôi: nó cũng đủ điều khiển được cả con người mình đang vui vẻ năng động thành ủ dột ù lì, đang mẫu mực tốt lành thành tồi tệ xấu xa khi mình biểu hiện ra hành động quá ư là xấu! Và mình hãy tự lo sửa đổi lấy mình để mình sống cho những người có liên quan thấy mà sửa đổi, chớ không là đòi hỏi họ phải sửa đổi. Tỷ như em đang chán vợ muốn đi tu thì nên năng động đi làm vì vợ muốn thế; em muốn dành thời giờ cho con mà vợ thì xiết hầu bao muốn em phải tự kiếm tiền lấy mà tiêu là em hãy đáp ứng yêu cầu nầy của vợ cho vợ được vừa lòng…. Em sớm lo đi làm đi! Không kiếm được việc làm ở đấy thì đi đến thành phố khác, tiểu bang khác và lúc đó vợ ở nhà ôm con là “biết đá biết vàng” thôi! Không chừng sẽ kíp năn nỉ em về và còn thay đổi lại cách đối xử. Em có cảm xúc buồn khi thấy tiền vợ làm vợ để băng riêng thì đừng buồn nữa mà nên vui vì vợ mình may mắn còn được có việc làm, lại biết lo liệu phòng thân…
Tôi lại ngừng nói để xem ý cậu thế nào thì được nghe giọng reo vui của cậu bên đầu điện thoại:
-Cám ơn chị! Em chịu cái ý chị bày cho em rồi đó! Để em sẽ áp dụng xem nhé! Nhưng, nhờ chị phân tích nên bây giờ em thấy thương lại bà xã lai láng như xưa chớ không còn buồn còn hận nàng nữa, thành thử em lo nhỡ em đi làm xa mà cô ấy không thèm năn nỉ em về thì sao?!
-Em lo cái chuyện bò trắng răng không! Em làm có tiền thì cứ coi như tiền đó là tiền của vợ con nên cứ thanh thản trao về cho vợ giữ bao nhiêu vợ muốn, sau khi thảo luận với vợ là em cần phải trừ đi chi phí tối thiểu cho em tiêu dùng, thì ổn cả thôi mà!
- Vâng, em cám ơn chị! Hy vọng em sẽ không gọi để quấy rầy chị quanh việc nầy nữa!
Tôi đáp lời cậu trong tiếng cười vui:
-Em gọi là chị sẵn sàng thôi! Nhưng, chị ao ước được em gọi để báo những tin vui cơ! Tin của vợ chồng ấm êm hạnh phúc, của con cái học hành thành đạt hoặc được ơn gọi đi tu thì chị mừng lắm! Chớ em mà báo tin em muốn đi tu lần nữa là chắc chị phải xỉu lăn quay ra!
-Vậy thì chị có cái bửu bối nào để giúp cho em trừ được tuyệt căn cái bệnh em muốn đi tu, chị bày nốt cho em luôn nữa đi?

Tôi suy nghĩ và cuối cùng đi lấy cuốn sách “Giờ Bên Chúa” được chị bạn vốn là bạn đọc đã tặng cho. Tôi chọn đọc một bài kinh trong đó để tặng cho cậu. Đó là bài kinh:

Xin Học Biết Chúa KiTô
“Lạy Chúa, xin dạy con biết dịu ngọt trước mọi biến cố của cuộc đời: trước những nỗi thất vọng, trước sự vô tâm của người khác, trước sự dối trá của những người con tín nhiệm, trước sự phản bội của con người.
Xin cho con biết quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của tha nhân. Biết che dấu những nỗi khổ và niềm đau nhỏ bé của mình, để chỉ mình con phải chịu đựng chúng mà thôi. Xin dạy con biết lợi dụng những đau khổ gặp phải trên đường đời, để nó làm con nên mềm ngọt chứ không thành chai đá hay cay đắng; để nó làm con nên nhẫn nại chứ không thành tức tối; để nó làm con nên rộng lượng thứ tha chứ không thành hẹp hòi, kiêu hãnh hay ngã lòng.

Từ sự chia trí nọ đến nỗi bận tâm kia trong cuộc sống hằng ngày, xin cho con biết thầm nói với Chúa một lời yêu thương. Xin giúp con biết sống siêu nhiên, đầy dũng lực để hành thiện và mạnh mẽ ý chí nên thánh. Amen”.

California 3/5/2010
Hoàng Thị Đáo Tiệp




KHÔNG CÒN MẸ

Bồ Câu Trắng


Tan học, Nam đạp xe về nhà , nó từ chối những lời rủ rê vào quán ăn kem của bạn bè , vì Nam nhớ tháng này là MÙA CHAY , mùa mà mình phải tiết chế chuyện ăn uống tiêu xài không cần thiết ,để dành tiền đó chia sẻ cho người nghèo khổ bệnh tật như lời Chúa dạy , và qua chính gương sáng của mẹ nó để lại khi còn sống …

Nam mủi lòng xúc động mỗi lần nghĩ về mẹ …, hình bóng mẹ vẫn như còn quanh quẩn đâu đây , chỉ mới giỗ đầu vừa tròn một năm mà sao gia đình Nam thay đổi nhiều quá …, bố không chịu nổi cú xốc này, nên đã tìm quên trong men rựợu , say xỉn đến làm mất phong độ ngày xưa…, bỏ bê ba anh em cậu cho bà nội quán xuyến lo toan , cũng may vì Nam là một chú giúp lễ đạo đức, nên có được đời sống nội tâm sâu sắc , tin cậy hết lòng vào Chúa, để rồi dũng cảm vượt qua số phận và đem lại niềm tin yêu an ủi cho hai đứa em thơ còn nhỏ dại .
Vừa thấy anh hai đi học về, hai đứa em chạy lại tíu tít :
_ A ! anh Nam về , sao bữa nay anh đi học về sớm thế ?
_ Ờ , vì cô bận họp nên cho về sớm một chút đó mà ! thế còn bé Lan , hôm nay đi học có ngoan không nè ?
Cô bé năm tuổi tươi cười khoe hai hàm răng sún , nhanh nhảu đáp lời :
_ Dĩ nhiên là phải ngoan rồi ,vì Lan là em của anh hai mà !
_ Hi.. hi ! nhớ nhé ! bữa nào dám hư ,bị anh đánh đòn đó nghe ! à mà bữa nay đi học, Soeur có dạy em bài hát mới không? hát anh nghe với !
Cô bé hí hửng cất giọng líu lo :
“ Ba thương con vì con giống mẹ , mẹ thương con vì con giống ba , cả nhà ta đều thương yêu nhau , xa lại nhớ gần nhau thì cười …”
Nghe bé Lan hát , lòng Nam bỗng chùn lại . Tuổi mười lăm mới lớn của cậu chưa kịp hưởng niềm vui đã phải gánh lấy nỗi bất hạnh “mồ côi mẹ khổ lắm ai ơi!” . Nhìn út Tú mới gần hai tuổi đang vô tư ôm quả bóng nhựa đẩy chơi …,Nam chợt nhớ đến bố ,nó thầm cầu nguyện xin Chúa cho bố sớm bình tâm suy nghĩ lại, để bỏ nhậu mà quay về nhà xum vầy với con cái , như thế sẽ đỡ buồn hơn biết bao …, vì dù sao thì Chúa cũng đã cho mẹ về bên kia thế giới rồi , có đau buồn nhớ thương mãi cũng đâu làm mẹ trở lại được kiếp người nữa đâu !. Nam có đức tin mạnh lắm,cậu đã hết buồn, vì tin Chúa đưa mẹ mình về thiên đàng trước, để phù độ cho gia đình còn ở đời này .
Nam thương hai em lắm , cậu quan tâm đến từng bữa ăn giấc ngủ của cả Lan và Tú , bao giờ cũng lo cho em ăn cơm xong rồi Nam mới dùng sau , hướng dẫn cho hai bé cùng đọc kinh tối chung với Nam và bà nội thiệt là sốt sắng , đáng yêu .


Bồ Câu Trắng
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
Trình bày bài viết theo thời gian:   
« Xem chủ đề trước | Xem chủ đề kế »
gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Truyện, ký, tiểu thuyết, Ä‘oản khúc... Chuyển đến trang Trang trước  1, 2, 3, 4, 5  Trang kế


 
Chuyển đến
 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn
Bạn không được phép gởi kèm file trong diễn đàn
Bạn có thể download files trong diễn đàn


Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net