GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


_READMORE
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 37
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 037
 Lượt tr.cập 055518852
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Diễn đàn Giáo Phận Vinh 26.04.2024
DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH :: Xem chủ đề - Năm Ngọ bàn về ngá»±a

 Chào mừng bạn đến với diễn đàn GIAOPHANVINH.NET


 Xem bài chưa có ai trả lời 
Đăng ký làm thành viênĐăng ký làm thành viên 

gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Phiếm luận - Phiếm đàm
 Bạn đang theo dõi chủ đề ở chuyên mục : Phiếm luận - Phiếm đàm 
Người đăng Thông điệp
dangngocan
Quản trị viên
Quản trị viên


 

Ngày tham gia: 13/11/2007
Bài gửi: 2466
Số lần cám ơn: 1
Được cám ơn 295 lần trong 287 bài viết

Bài gửigửi: 29.01.2014    Tiêu đề: Năm Ngọ bàn về ngá»±a Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

NĂM NGỌ BÀN VỀ NGỰA
Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nhìn vào những tấm lịch, ắt hẳn mọi người đều thấy năm 2014 được gọi là năm Giáp Ngọ, cầm tinh con ngựa. Vì thế, gã xin bàn về con vật thân thương vừa mới được lên ngôi này.

Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức thì ngựa là loài thú to, móng cao và cứng, đầu dài, bờm dài, đuôi dài và chạy rất nhanh. Còn theo tự điển “Petit Larousse”, mấy ông tây đã định nghĩa như sau: Ngựa là loài có vú, có móng, có chân dài và rất khoái chạy. Lông của nó có đủ màu đủ sắc. Trắng thì gọi là ngựa bạch, đen thì gọi là ngựa ô. Còn có cả những màu sắc gã chưa hề thấy bao giờ, chẳng hạn xanh thì gọi là ngựa bích, tím thì gọi là ngựa tía...

Vì rất khoái chạy, nên ngựa thường được người ta nuôi để cưỡi. Lính tráng thì cưỡi ngựa xông ra chiến trận để bảo vệ quê hương đất nước, chẳng thế mà đã có hẳn một binh chủng mang tên là “kỵ mã”, tức là lính cưỡi ngựa. Còn những bậc ”thi sởi” thì lại thích cưỡi ngựa xem hoa, đủng đỉnh cho đúng với cốt cách phong nhã của con nhà tao nhân mặc khách.
Vì rất khoái chạy, nên ngựa còn được người ta nuôi để kéo xe. Trong những gia đình quyền quí ngày xưa, người ta có những chiếc xe song mã, tam mã, tứ mã... Riêng giới bình dân thì có xe độc mã, nghĩa là chỉ có một con ngựa duy nhất để kéo. Hồi còn bé, gã đã được nhìn thấy những chiếc xe ngựa ở vùng Hóc Môn và ngay cả trong thành phố Saigon nữa. Xe ngựa thời đó cũng rất thanh lịch và đẹp mắt, thường được dùng để chở khách đi chợ. Có những bác tài tốt bụng và yêu trẻ, đã cho bọn nhóc tì quá giang khi đến trường cũng như lúc tan trường. Và gã rất thích cái thú nhảy xe ngựa, mặc cho bác tài phùng má trợn mắt mà la hét, tay cầm chiếc roi dư dứ trước mặt. Bây giờ thì xe ngựa đã được thay thế bằng xe gắn máy, xe ô tô. Một thoáng bâng khuâng tiếc nhớ như bà huyện Thanh Quan trong “Thăng Long thành hoài cổ” :
- Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Đền cũ lâu đài bóng tịch dương.


Cũng vì rất khoái chạy, nên người ta thường dùng ngựa để tổ chức những cuộc đua, xem con ngựa nào chạy nhanh nhất và về đích sớm nhất.
Hồi còn bé, lúc học trong nội trú, cứ vào chiều thứ năm là bọn gã được đi “bát phố”. Có hai điểm được chiếu cố nhiều hơn cả, đó là vườn “Bờ rô” và trường đua Phú Thọ, bởi vì hai điểm này không quá xa, đủ sức để mà đi bộ.
Vườn “Bờ rô” có sân Tao Đàn, nơi tập dượt của đội Quan thuế. Vào đó để được nhìn thấy thủ môn Rạng, nổi tiếng nhất miền Nam thời bấy giờ với những đường “bay bắt bóng”. Ngoài ra, vườn “Bờ rô” còn có một câu lạc bộ, hay nói một cách vắn tắt, còn có một hội những người đua ngựa do một ông tây nào đó làm xếp. Đứng ở ngoài vòng đai, thiên hạ tha hồ chiêm ngắm những con ngựa đua vừa cao to, lại vừa khỏe mạnh. Đen cũng có mà nâu cũng có. Khác hẳn những con ngựa gầy trơ xương sống kéo xe bở hơi tai của dân ta.
…
Giữa tiếng ta và tiếng tàu có nhiều mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khi đã nói đến chữ ngựa, thì cũng phải tra xem trong tiếng tàu có những chữ nào bàn về loài động vật này.
Trước hết là chữ ngọ. Ngọ là chữ thứ bảy trong mười hai chi: tí sửu dần mão... Nói theo kiểu “nho chùm” trong “Hán Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng thì ngọ là vị thứ bảy trong thập nhị chi. Và trong thập nhị chi, thì ngọ ám chỉ con ngựa. Vì thế cứ mười hai năm một lần, con ngựa lại lên ngôi và bất kỳ năm nào mang nhãn hiệu trình tòa là “ngọ” thì cũng đều cầm tinh con ngựa cả.
Tiếp đến là chữ câu. Câu là con ngựa trẻ đang sung sức. Bên tàu thì nói: Bạch câu quá khích, có nghĩa là con ngựa trắng vụt ngang khe cửa. Còn bên ta thì bảo: Bóng câu qua cửa sổ. Cả hai đều diễn tả ý tưởng thời gian qua mau.
Sau cùng là chữ mã. Mã là con ngựa. Ngày xưa, người ta sính văn chương thơ phú. Vì thế mới xảy ra:
Có hai cậu học trò, một người thì giỏi còn một người thì dốt. Cậu học trò giỏi vào ra mắt viên tướng. Viên tướng bảo cậu hãy làm một bài thơ với tựa đề: Bạch mã. Chẳng cần suy nghĩ, cậu học trò giỏi bèn đọc một lèo:
- Bạch mã mao như tuyết,
Tứ thúc cương như thiết.
Tướng quân kỵ bạch mã,
Bạch mã tẩu như phi.

Có nghĩa là: Ngựa trắng lông như tuyết, bốn chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi ngựa trắng, ngựa trắng chạy như bay. Nghe xong bài thơ trên viên tướng lấy làm đắc ý, vỗ đùi đánh đét một cái, rồi thưởng cho cậu học trò giỏi một số tiền lớn. Thấy vậy, cậu học trò dốt cũng mon men vào ra mắt viên tướng. Viên tướng nhìn ra sân, thấy bà cụ già đi ngang qua, bèn ra đề tài bài thơ là bà lão. Cậu học trò dốt nghĩ mãi chẳng được một câu nào, cuối cùng bèn “thuổng” bài thơ trên mà rằng:
- Bà lão mao như tuyết,
Tứ thúc cương như thiết.
Tướng quân kỵ bà lão,
Bà lão tẩu như phi.

Có nghĩa là: bà lão lông trắng như tuyết, bốn chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi bà lão, bà lão chạy như bay. Quả là hết ý, thiếu điều viên tướng nọc cậu ra, phét cho mấy trượng vào mông cho chừa thói “đạo văn” của người khác.

Ngày xưa người ta cũng thường dùng da ngựa để bọc tử thi, vì thế mới có câu: Mã cách lõa thi, ám chỉ cái chết của người nam nhi có chí khí đi đánh giặc, nếu chết thì lấy da ngựa bọc thây đem chôn là đủ: Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Ngày nay người ta dùng hai chữ “mã lực”, có nghĩa là sức ngựa, để chỉ công suất của một chiếc máy có thể nâng một vật nặng bảy mươi lăm ký lô lên cao một mét trong một giây đồng hồ.

Đối với người Việt Nam, ngựa tuy không gần gũi như gà vịt, chó mèo và lợn, không gắn bó như trâu bò, nhưng lại góp phần rất lớn trong việc lập nước và giữ nước. Gã xin kể hầu một vài câu chuyện để chứng minh cho sự thật trên.

Câu chuyện thứ nhất về ngựa sắt.
Đời vua Hùng Vương thứ sáu, nước Ân ở phía Bắc mưu toan xâm lăng để cướp lấy nước Văn Lang. Vua Hùng Vương rất lấy làm lo lắng, bèn họp quần thần để hoạch định kế giữ nước. Trong hàng quan văn có người cho biết ngày trước tiên đế Lạc Long Quân có truyền lại rằng: Khi nào nước nhà gặp cơn nguy biến, thì nên cầu thần lên giúp. Hùng Vương liền truyền lệnh triệu thần nhân. Ba hôm sau, có một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên giữa lúc mưa bão, tự xưng là Lạc Long Quân. Cụ bảo rằng: Trong ba năm nữa, giặc Ân từ phương Bắc sẽ tràn xuống. Bấy giờ nhà vua hãy cho người đi khắp nước cầu tướng tài ra giúp, chừng ấy sẽ có thần tướng hiện ra cứu an xã tắc. Ba năm sau, quả nhiên giặc hùng mạnh như vũ bão tràn sang cướp nước Nam. Chúng đi đến đâu là nhà tan cửa nát, còn người thì bị giết, gây nên bao cảnh hãi hùng. Tin cấp báo về đến Phong Châu, Hùng Vương nhớ lời dặn của Lạc Long Quân...

Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh, thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ, có một người đàn bà đã ngoài sáu mươi tuổi, cách mấy năm trước, ra đồng trông thấy một vết chân người to lớn. Lấy làm lạ, bà ta liền đặt chân mình vào ướm thử, bỗng nhiên tâm thần giao động. Về nhà liền thụ thai, sinh ra một đứa con trai đặt tên là Gióng. Tuy đã được ba tuổi, nhưng Gióng không biết lẫy, không biết bò, không cò rò biết đi và cũng chẳng nói được một tiếng nào. Nhưng lạ thay, khi sứ giả của vua Hùng Vương đi qua đấy, Gióng liền ngồi lên, rồi cất tiếng yêu cầu mẹ mời sứ giả đến. Bà mẹ vô cùng kinh ngạc, nhưng cũng chiều ý con, đi mời sứ giả tới. Gióng liền bảo sứ giả về tâu vua cho đúc một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt để đuổi giặc. Nhớ lời tiên tri của Lạc Long Quân, vua Hùng Vương biết đó là thần nhân, liền cho đúc ngay một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt. Khi sứ giả của vua mang đủ các thứ đến nhà, Gióng đứng lên, vươn vai thành một người to lớn dị thường, bảo mẹ nấu cơm cho ăn và xin mặc áo. Bà mẹ nấu liên tiếp mấy nồi cơm, nhưng Gióng ăn không no. Cả làng phải góp gạo, giết gà, mổ heo, làm cơm cho Gióng ăn. Gióng ăn rất khỏe, ăn mãi mà vẫn chưa thỏa. Cả làng xóm góp vải vóc để may quần áo cho Gióng mà vẫn không đủ với tầm thước của Gióng. Gióng đội nón, cầm gươm, nhảy lên ngựa sắt thúc chạy nhanh như gió. Trong miệng ngựa bỗng nhiên khạc ra lửa. Ngựa phi nhanh như sấm sét, mang Gióng ra chiến trường. Giặc Ân trông thấy Gióng như một thiên thần xông pha ngang dọc. Gióng đi đến đâu thì ngựa phun lửa đốt cháy quân giặc tới đấy. Các tướng Ân bị gươm của Gióng chém chết ngã rạp như chuối. Giặc Ân chạy trốn trối chết, thây người chồng chất ngổn ngang. Đang tung hoành giữa chiến trận, thanh gươm sắt bị gãy ngang, Gióng thuận tay nhổ luôn bụi tre bên đường đập vào đầu quân giặc hung ác, làm chúng rối loạn hàng ngũ. Dẹp xong đám giặc Ân khát máu, Gióng phi ngựa chạy lên núi Sóc, trút bỏ quần áo lại, rồi cả người lẫn ngựa đều bay bổng lên trời.
Tương truyền các ao hồ từ những vùng Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn đều do dấu chân ngựa sắt của Gióng để lại. Khu rừng chỗ giặc Ân bị đốt chết cháy ngày nay vẫn còn mang tên là làng Cháy. Nhớ công ơn đã trừ giặc bạo ác cứu nước, vua Hùng Vương liền phong cho Gióng chức Phù Đổng Thiên Vương. Còn người đời thường gọi Gióng là Thánh Gióng. Ca dao có câu:
- Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ,
Ai hay thần tướng đợi chờ phong vân.


Ngày nay, nói tới ngựa sắt là thiên hạ lại nghĩ ngay đến những chiếc xe gắn máy được thanh niên nam nữ phóng như bay và bóp còi inh ỏi trên đường phố.

Chuyện thứ hai về ngựa đá.
Tương truyền rằng giặc Mông Cổ tràn sang xâm lấn nước ta. Hưng Đạo Vương phải một trận thư hùng tại sông Bạch Đằng, đuổi quân Mông Cổ không còn một manh giáp. Khi tan trận, vua Trần Nhân Tôn thấy ngựa đá ở trước lăng tẩm, chân đều vấy bùn và mình rịn mồ hôi, nên nhà vua tin rằng nhờ anh linh các bậc tiên đế cưỡi ngựa đá theo giúp đuổi giặc, nên Hưng Đạo Vương mới chiến thắng. Vì thế, nhà vua liền ngửa mặt lên trời mà cảm tạ:
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Có nghĩa là:
- Xã tắc hai lần nhọc ngựa đá,

Non sông ngàn thuở vững ngai vàng.

Sau cùng, chuyện thứ ba về ngựa gỗ.
Chuyện này xuất phát từ thần thoại Hy Lạp. Số là để đột nhập vào thành Troie, chàng dũng sĩ Ulysse đã phải làm một con ngựa gỗ thật lớn và đem dâng cho dân thành. Thế nhưng, chàng đã ém một số binh lính tinh nhuệ trong bụng con ngựa gỗ khổng lồ ấy. Khi cổng thành được mở ra, lập tức các binh lính nhào tới, đánh chiếm thành và đã chiến thắng vẻ vang.
Nhìn những con ngựa chiến thật oai phong lẫm liệt với những đặc tính vừa dễ thương lại vừa dễ mến. Tuy nhiên, những đặc tính dễ thương và dễ mến này, một khi được áp dụng cho con người, thì lập tức chúng bị biến thái, trở thành vừa dễ thù lại vừa dễ ghét.

Như trên chúng ta đã thấy, ngựa là một trong những loài vật giúp ích rất nhiều cho con người, thế nhưng khi rủa: Đồ ngựa. Hai chữ “đồ ngựa” này lại ám chỉ hạng đờn bà con gái lẳng lơ và trắc nết.

Cũng vậy, mặt ngựa tuy dài, sống mũi thẳng và cao bằng trán, nhưng cũng đẹp đáo để, chẳng thế mà anh chàng tài tử Fernandel, người Pháp, vốn được mang biệt danh là “mặt ngựa” vì mặt của anh chàng này khá dài, đã nổi tiếng khắp thế giới, đã hốt bạc với những cuốn phim của mình và tên tuổi còn được ghi lại trong từ điển Larousse. Thế nhưng, khi chửi: Lũ đầu trâu mặt ngựa. Bốn chữ “đầu trâu mặt ngựa” này lại ám chỉ bọn ác ôn côn đồ, không biết thương người.

Một đặc tính khác của ngựa đó là rất nhớ đường. Chỉ một lần đi qua, lập tức đoạn đường liền được ghi vào bộ nhớ của nó, nhất là khi bị bán đi xa, nó thường tìm cách trở về con đường cũ mà tìm lại chủ xưa. Vì thế, người ta mới bảo: Ngựa quen đường cũ. Bốn chữ “ngựa quen đường cũ” này lại ám chỉ những thói hư khó bỏ. Một người đã quen làm việc xấu, thì dù được khuyên bảo để trở nên lương thiện, thì rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực để rồi cuối cùng vẫn nhớ tật cũ mà làm quấy, làm xằng , làm bậy lại mà thôi.

Ngoài ra, như gã đã trình bày: Ngựa rất khoái chạy và chạy càng nhanh càng tốt, nhất là lại chạy như gió nữa thì quả là tuyệt vời. Chả thế mà người ta đã gọi những con ngựa tuyệt vời ấy là “ngựa truy phong”, có nghĩa là ngựa chạy theo được gió. Thế nhưng, khi kết án ai là hạng quất ngựa truy phong. Bốn chữ “quất ngựa truy phong” này lại ám chỉ kẻ dùng những mánh khóe lừa gạt người khác rồi bỏ trốn. Cụ thể như anh đờn ông mở miệng ra là “nói khó” cùng chị đờn bà để được yêu thương. Thế nhưng, khi đã đạt mục đích, khi “con ong đã tỏ đường đi lối về”, thì liền “quất ngựa truy phong”, lập tức... biến mất tăm mất tích, mặc cho chị đờn bà bụng mang dạ chửa. Rõ là đồ sở khanh. Rõ là phường đểu giả.
Cho đến bây giờ, sau nhiều đêm suy gẫm, gã vẫn chẳng hiểu được tình trạng biến thái từ ngựa sang người lại tồi tệ đến như vậy. Tới đây, gã xin kể lại mẩu chuyện sau đây như một kết luận.

Tương truyền rằng Tái Ông có một con ngựa đực. Ngày kia, con ngựa buồn tình bỏ đi hoang mất tiêu. Bà con lối xóm thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo: Biết đâu là phước đó. Cách mấy hôm sau, con ngựa trở về và dẫn thêm mấy con ngựa cái nữa. Bà con lối xóm thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia vui, Thế nhưng, Tái Ông nói: Biết đâu là họa đó. Quả nhiên mấy hôm sau, các con ông thấy ngựa đẹp bèn tranh nhau cưỡi, chẳng may sẩy tay, té ngã gẫy chân. Lối xóm hay tin liền đến hỏi thăm và chia buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo: Biết đâu là phước đó. Đúng vậy, quê nhà có giặc, loạn ly khắp nơi, đất nước cần lính nên mộ binh, con ông nhờ gẫy chân mà không phải thi hành nghĩa vụ quân sự.

Như vậy, chúng ta mới thấy việc họa phước chẳng biết đâu mà đoán lường trước được. Có khi họa xảy đến liên miên cho điêu đứng khổ sở. Nhưng thường là: Họa vô đơn chí, phước bất trùng lai. Có nghĩa là tai vạ không đến một mình, thường tai vạ này nối tiếp tai vạ khác. Còn vận may thì trái lại, không dễ có hai lần cùng lúc. Cũng như Tái Ông mất ngựa, gã xin cầu chúc cho bàn dân thiên hạ khắp bốn phương trời, trong năm con ngựa này, dù có gặp phải xúi quẩy, thì những xúi quẩy này cũng mau chóng biến thành hên may. Hay như lời Đức Kitô đã phán: “Hôm nay các con phải buồn khổ, nhưng ngày mai nỗi buồn của các con sẽ trở nên niềm vui”.

Nguồn tư liệu trích Báo Thánh Nhạc Ngày Nay số 102 Năm X tháng 2-2014
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn
Trình bày bài viết theo thời gian:   
« Xem chủ đề trước | Xem chủ đề kế »
gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Phiếm luận - Phiếm đàm


 
Chuyển đến
 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn
Bạn không được phép gởi kèm file trong diễn đàn
Bạn có thể download files trong diễn đàn


Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net